Thú Huyết Phi Đằng


“Đêm ấy, Lưu Chấn Hám mơ những giấc mơ rất đẹp.
Hắn mơ thấy mình làm tân lang, cưỡi ngựa lớn, dương dương đắc ý.
Sáng hôm sau, Lưu Chấn Hám bị “tiểu hồ ly” gọi dậy. Hải Luân bảo hắn trong đêm vừa ngủ vừa cười hì hì, nhìn ngu bà cố.
Lưu Chấn Hám thấy mình làm ướt luôn cái khố lông sói, quần áo trắng bị dính một mảng ướt nhẹp.
Cái này chắc là tác phẩm từ chuyện động phòng hoa chúc trong mơ của hắn rồi.
Lưu Chấn Hám không khỏi bị giấc mộng đêm hôm qua làm cho phấn khởi, bắt đầu tìm kiếm gỗ chuẩn bị kết bè. Ở trên đảo mấy ngày nay, hắn gần như đã đi hết, thấy trừ mấy cây cọ hoặc dừa, thì chỉ có rừng hồng liễu là có gỗ. Nhưng những thứ gỗ này không thích hợp đóng bè. Dừa thì quá cao to khó dịch chuyển, cọ thì quá ngắn, hồng liễu thì quá bở và ẻo lả.
Lưu Chấn Hám không thể không phóng mắt tìm kiếm toàn đảo, tra xét từng ngóc ngách nhỏ. Cùng lúc ấy, Hải Luân bắt đầu dùng Thông Linh chiến ca triệu hoán ngư ưng bay ngang bầu trời.
Lưu Chấn Hám cũng hỏi Hải Luân cách để sử dụng Thông Linh chiến ca để triệu hoán ma thú làm sủng vật. Tuy hắn hiện giờ có thể xướng khởi chiến ca, nhưng không hiểu ra cách sử dụng như thế nào cho tốt.
Hải Luân cho hắn biết, sở học của hắn tuy hiện thời là Thông Linh chiến ca, nhưng kỳ thật nó phải thông qua một thứ chiến ca cơ sở trong Tế tự thánh đàn, đó là Phong ngữ tế ca, rồi từ đó mới học thành phân nửa bản Thông Linh chiến ca. Sau đó tập luyện tới mức siêu độ Vong hồn chiến ca, được Chiến thần hoài bão, rồi từ thần miếu được tấn cấp lên mức Quyền trượng tế tự, mới có thể học tập phần còn lại của Thông Linh chiến ca.
Trong Thông Linh chiến ca có nhiều âm tiết ảo khẩu, trong đó đặc biệt có những âm giai của Tinh linh ngữ và Long ngữ rất kỳ diệu tổ hợp thành. Rất nhiều Phong ngữ tế tự phải mất rất nhiều năm mới được thăng cấp, là vì để nắm rõ mấy thứ này cần rất nhiều thời gian, không phải kẻ có tiềm chất thì rất khó vượt qua.
Chỉ khi học xong toàn bộ Thông Linh chiến ca, để lên cấp Chiến tranh tế tự, mới học tiếp được “Cuồng bạo chiến ca”, “Chúc phúc chiến ca”, “Thạch phu chiến ca”, “Huy hoàng chiến ca” và các chiến ca cao cấp khác. Sau khi tấn cấp đến Chiến tranh tế tự, có thể ở trong quân đội tham mưu. Trong thánh đàn tế tự có nhiều tế tự có tư chất thấp kém, chỉ có một cấp Phong ngữ tế tự là đã mất hết cả cuộc đời.
Tế tự có Linh Hồn chiến ca bẩm sinh quý ở chỗ là thời gian học tập khá ngắn. Sinh ra là họ có thể đạt được cấp phổ thông tế tự ở thánh đàn. Chỉ cần nỗ lực học tập, họ đã có thể đạt đến mức trung bình. Sau đó, mọi việc đều vượt qua tốc độ có thể tưởng tượng được của tế tự bình thường. Trong sử thi của Bỉ Mông, nhiều vị Thiên sanh linh hồn ca giả đều là nhân vật anh hùng không còn cấp nào để học nữa.
Từ nghìn năm trước, trong chiến dịch Hải Gia Nhĩ, Bỉ Mông vương quốc chỉ có duy nhất một vị Thiên sanh linh hồn ca giả chỉ mới tấn cấp đến Chiến tranh tế tự, thế mà đã có thể lôi kéo được một con rồng làm ma sủng, trở thành vị Long kỵ tế tự duy nhất trong lịch sử Bỉ Mông. Tuy vị ấy không tránh được tử vong khi đối trận với mười vị long kỵ sĩ của nhân loại, nhưng Bỉ Mông vương quốc cứ coi vị ấy như một anh hùng, và lấy đó làm sự tích để giáo dục các thế hệ mai sau.
Điều này chứng tỏ đây là một trong những nguyên nhân khiến Hải Luân có niềm tin cực mạnh đối với Lưu Chấn Hám.
Thông Linh chiến ca ngoài việc có thể trấn an linh hồn, thì việc triệu hoán ma sủng do chiến thần cấp cho cũng là một nhiệm vụ trọng yếu khác.
“Khi ngâm xướng chiến ca phải bày tỏ tình cảm của bản thân. Muốn biểu đạt tình cảm gì thì dùng ca thanh để diễn dịch như vậy. Thông qua cách đó, có thể khiến cho ma thú lý giải được, cảm giác được ý nghĩ trong nội tâm của tế tự. Mỗi ma thú đều mang một trí tuệ nhất định. Đẳng cấp càng cao, thực lực càng mạnh thì ma thú càng thông minh. Nhưng một khi nó đã tiếp thụ huynh, khế ước với huynh, thì từ một thánh đàn tế tự phổ thông, huynh có thể cải biến vận mệnh thành mức không thể nói trước được.”
Trong lịch sử của Bỉ Mông tế tự, không thiếu sự tình như thế. Có rất nhiều kỳ tích phát sinh khi ngâm xướng Thông Linh chiến ca, một kẻ linh hồn ca giả địa vị thấp kém thậm chí có thể thu phục được cả ma sủng mạnh hơn cả ma sủng của Quyền trượng tế tự.
Về địa vị của Thánh đàn tế tự trong Thần miếu, rất nhiều trình độ đều là dựa vào thực lực của ma sủng để xếp. Hơn nữa, truyền thống của Bỉ Mông vương quốc rất chú trọng thực lực cá nhân. Về điểm này, ngay cả những Thánh đàn tế tự có tri thức uyên bác cũng không thể miễn được.
Triệu hoán ma thú do Chiến thần ban cho cần phải biểu đạt thành ý trong chiến ca. Án chiếu theo cách giảng của “tiểu hồ ly”, thì chỉ cần đem những gì mình định làm, dùng thành ý của mình biểu đạt ra thông qua ca thanh, rồi nếu ma thú ở trước mặt có thể lý giải được điều đó, thì nó sẽ tiếp nạp mình, nguyện ý cùng mình kề vai tác chiến, kiến lập công tích, như vậy là coi như đại cáo công thành.
Lưu Chấn Hám cảm thấy những gì mình nghe được có vẻ không rõ ràng cho lắm.
Tiếng ca biểu đạt tình cảm của chính mình, điều này thì hắn có thể hiểu. Nhưng dùng Thông Linh chiến ca để biểu đạt nội tâm như thế nào, thì rõ ràng là phức tạp hơn một chút. Hiện giờ hắn chỉ có thể hiểu ca từ của chiến ca có ý nghĩa như thế nào thôi.
Bỉ Mông Thông Linh chiến ca:
“Khi ta nắm chặt ……
“Hai tay của nàng cùng Chiến thần Khảm Mạt Tư ……
“Thì đã ……
“Đem chuyện cũ trời đông vứt lại phía sau ……
“Trong những tháng ngày ……
“Cảm ơn sự khẳng khái của chiến thần……
“Thời gian trôi qua không cần nhớ……
“Chỉ nhớ mỹ đức của nàng……
“Từ giữa không trung rơi xuống ……
“Nửa chiếc lá phong……
“Đó chính là dòng máu nóng rực cùng dũng khí của ta hóa thân ……
“Ôi……
“Khảm Mạt Tư vinh diệu……
“Bắt đầu từ nàng và ta ……”
Lưu Chấn Hám nhận thấy với lời ca này, hắn có thể biểu đạt ý tứ của mình. Lời không phải là vật, dùng để an ủi linh hồn người chết rõ ràng là không khả thi. Lưu Chấn Hám cho rằng người chết rồi thì không nghe người ta nói được gì. Nhưng dùng lời này thành chiến ca để lung lạc cảm tình, để thu phục một con ma thú ra sao, thì Lưu Chấn Hám lại không nắm chắc cho lắm.
Lưu Chấn Hám một bụng đầy dâm từ diễm khúc, dù có cố cũng chỉ nhớ được một số ca khúc nghiêm túc, thì làm sao dùng ca từ biểu đạt ý nghĩ gì chứ?
Ngay như lấy bài “Trăng sáng đêm rằm” ra để bàn, Lưu Chấn Hám dù cảm thấy tâm hồn trở nên mênh mông khi nghe ca khúc đó, vì nó có những ca từ khích lệ khiến bản thân nhớ đến nhiệm vụ bảo hộ quốc gia, bảo hộ người thân cùng huyết tính. Nhưng nếu chuyển nó thành chiến ca của Bỉ Mông, sao có thể từ những lời ca mơ hồ đó biểu đạt ý tứ của mình được?
Ma thú sao có thể nghe hiểu được tâm ý gì ở ta? Lưu Chấn Hám căn bản không tin. Bản thân hắn còn không rõ được hắn nghĩ gì. Hắn không lý giải được bản thân, thì nói gì chuyện khiến cho ma thú lý giải hắn!
Nhưng sự thật đã thay đổi suy nghĩ của hắn, khi chứng kiến “tiểu hồ ly” Hải Luân ngâm xướng Thông Linh chiến ca, triệu hoán một con ngư ưng đến làm ma sủng ngay trước mặt hắn. Tâm tư của hắn bắt đầu lung lay.
Tuy được “tiểu hồ ly” cho biết ngư ưng chỉ là một ma sủng có cấp rất thấp, chỉ có thể phun được toan dịch (chất dịch có tác dụng như axit), không sánh bằng Quả Quả của hắn, nhưng cũng khiến Lưu Chấn Hám động tâm.
Trong quá trình ngâm xướng triệu hoán ma thú, “tiểu hồ ly” thường thực hiện những thủ thế kỳ quái. Lưu Chấn Hám cho rằng đó là một bí môn gì đó, liền truy vấn “tiểu hồ ly”, nhưng nàng giải thích đó chỉ là những tập quán nho nhỏ của nàng khi ngâm xướng chiến ca, không phải là thủ thế gì cả.
Tuy không tự tin với chính bản thân, Lưu Chấn Hám cũng có ý muốn thử. Dù sao thì sau khi kiến thức sự lợi hại của lam sắc cự lang, Lưu Chấn Hám cho rằng nếu có thêm nhiều kẻ giúp đỡ thì cũng không xấu gì.
Lưu Chấn Hám thấy lúc này cũng ở không, cũng nên tìm mấy con “Thủy tiễn thố” không có lực thương hại gì lớn thử xem Thông Linh chiến ca của mình có hữu dụng chút nào hay không. Vạn nhất chiến ca không linh, ma thú trở mặt, thì cái bọn “Thuỷ tiễn thố” đó cũng không khó đối phó. Tuy nhiên, chủ ý này lại bị “tiểu hồ ly” kịch liệt phản đối. Nàng lần nữa nhắc cho hắn nhớ về sự nghiêm túc trong việc thu phục ma sủng. Ma sủng luôn có khế ước tâm linh với tế tự. Hai bên đều không thể phản bội đối phương. Vô cớ bỏ mặc ma sủng của mình, chiến thần Khảm Mạt Tư sẽ tước đoạt mọi năng lực của tế tự. Đồng thời, vì có quan hệ đến khế ước tâm linh, một khi ma thú tử thương, tâm lý của tế tự sẽ đau đớn giống như mất đi một kẻ chí thân vậy.
Hải Luân cũng đồng thời cật lực ngăn cản Lưu Chấn Hám chuẩn bị cùng Quả Quả lập thiêm ước. Tuy rất dễ lập thiêm ước với ma thú có quan hệ thân mật, nhưng Hải Luân thật không muốn “Lý Sát của nàng”, một thiên sanh linh hồn ca giả, lại đi lập khế ước tâm linh với một con ma thú thấp kém không còn gì kém hơn là “Ách vận chi thú” như vậy.
Theo lệ thường, Thiên sanh linh hồn ca giả có lực hấp dẫn trời cho đối với ma thú. Khả năng triệu hoán thành công mười phần cũng có tới năm, nếu như điều kiện không thể, thì ít nhất Hải Luân cũng phải cho “Lý Sát” triệu hoán được một ma thú ở biển sâu.
Nếu không triệu hoán được ma thú hoang dã, thì cũng có thể chọn dị giới ma thú trên Ái Cầm đại lục. Điều này không cần gấp. Tóm lại là Hải Luân đã tính toán con đường tiếp theo của “Lý Sát” một cách cẩn thận rồi.
Thiêm ước ma sủng cũng phải có kỷ xảo. Trong Bỉ mông vương quốc của người thú, có gia tộc Phúc Khắc Tư có thế lực vô cùng hùng mạnh, lại biết cho ma thú sinh con sinh trứng, thuần dưỡng chúng từ thủa nhỏ để đáp ứng cho nhu cầu của các tế tự trong gia tộc. Ma thú nuôi này tuy không có dã tính cường đại như ma thú hoang dã, nhưng mức thành công của Thông Linh chiến ca đối với chúng khá cao, do quan hệ mật thiết giữa hai bên. Mức thành công khi triệu hoán ma thú hoang dã là rất thấp. Ma thú có cấp càng cao, lực lượng càng hùng hậu, thì khả năng thuần phục càng khó.
Bộ tộc của mẫu thân Hải Luân chính là Phúc Khắc Tư có thế lực nhất trong vương quốc. Gia tộc cứ một mực nuôi dưỡng “Thiểm điện ma kính” (theo truyền thuyết, nó là một loại thú khi sinh ra là ăn thịt mẹ trước).
Lưu Chấn Hám nhìn Hải Luân cười ngọt ngào như đường phèn như vậy, bèn không nhẫn tâm dập tắt hứng khởi của nàng, trong tâm cho rằng dù không thiêm ước với Quả Quả cũng không sao, mình với nó như hai cha con, không thiêm ước thì có vấn đề gì lớn đâu.
Tạm thời không có hy vọng gì để thu phục ma thú, Lưu Chấn Hám bèn một lòng suy nghĩ xem làm cách nào có thể tạo được một cái bè. Nhân cơ hội này, hắn bắt đầu đi tham tuần toàn bộ đảo một lần nữa, kỳ vọng phát hiện chút cây cối nào đó có thể dùng để tạo bè.
Toàn bộ đảo có địa hình khá phức tạp, Lưu Chấn Hám sau khi đi hết một vòng mới phát hiện điều ảo bí ẩn giấu bên trong nó.
Tòa đảo này nếu đi về hướng bắc vài dặm, vượt qua vài gò đất tròn nhỏ, thì có thể phát hiện trên đảo không hề có cái động nào, hơn nữa lại có một hải đảo gần đó giống y chang như nó. Tiểu đảo đó không hề có những gò hình bánh bao như ở đây, ở giữa lại lõm vào, nhìn giống như miệng một núi lửa chết. Đất trong miệng núi lửa đầy rẫy cây xanh. Lưu Chấn Hám đứng trên đỉnh đồi nhìn kỹ lại, phát hiện miệng núi lửa đó quả nhiên mọc đầy tre trúc. Hắn căn bản không hiểu tại sao giống trúc luôn sợ cuồng phong lại có thể xuất hiện trên đảo như vậy. Hắn đoán có lẽ là do miệng núi lõm vào ngăn bớt gió biển, khiến chúng miễn được vận mệnh bị thổi đổ gãy tan tành.
Phát hiện ra điều này, Lưu Chấn Hám bèn nghĩ ông trời chẳng tuyệt đường của người. Có thứ tre trúc thế này, tạo bè đi biển chỉ là chuyện nhỏ mà thôi. Tre trúc khá nhẹ, không nặng như mấy cây khác, lại không khó chặt cho lắm.
Phát hiện này khiến Lưu Chấn Hám mừng muốn xỉu, nhưng khi “tiểu hồ ly” chuẩn bị vượt nước mà qua, hắn chợt ngăn nàng lại.
Trước mắt, trên tiểu đảo đang ở không hề phát hiện ma thú nào lợi hại, giỏi lắm là bọn thỏ biết bắn tên nước hoặc mấy con chuột giống Quả Quả biết phun băng khí mà thôi. Vậy con lam sắc cự lang lần đầu tấn công hắn là từ đâu ra?
Lưu Chấn Hám e rằng con Lam sắc cự lang đó chính là đến từ hòn phá đảo kia. Nếu thế thì hắn không thể không phòng bị.
Cự ly giữa hai hòn đảo này theo ước tính của Lưu Chấn Hám là khoảng ba trăm mét. Sau một ngày quan sát cẩn thận, hắn phát hiện vào lúc nước ròng trong hai buổi sáng chiều cố định, giữa hai tòa tiểu đảo này lộ ra một con đường nối liền hai đảo ẩn dưới mặt nước.
Phát hiện này càng khẳng định nghi ngờ của Lưu Chấn Hám. Con sói đó không đủ sức bật để nhảy một cái từ bên đó sang, mà nhất định là nhân lúc nước ròng mà chạy từ bên đó sang bên này.
Lưu đại quan nhân tính toán lại thực lực của bên mình. Bản thân hắn đang cầm trong tay thanh loan đao thượng hảo. Dùng đao này ngăn cái Phong nhận (đao gió) của cự lang không phải là vấn đề. Nếu như có thêm con ngư ưng của “tiểu hồ ly” và Quả Quả, lấy ba chọi một, Lưu Chấn Hám cho rằng nếu có gặp con cự lang như vậy nữa thì cũng có thể thu thập được.
Nhìn hai hòn đảo nhỏ liên tiếp nhau này, Lưu Chấ đột nhiên phác giác kỳ thật chúng rất giống với một thứ!
“Hải Luân.” Lưu Chấn Hám đứng trên đỉnh đồi, cười hì hì nhìn hai hòn đảo, hỏi “tiểu hồ ly”: “Nàng thấy hai tiểu đảo này giống thứ gì?”
Hải Luân cảm thấy nụ cười của Lưu Chấn Hám có vẻ rất dâm tà.
“Giống như kính mắt của các học giả hoặc các ma pháp sư có học vấn của nhân loại thích mang vậy.” Tiểu hồ ly nghĩ đi nghĩ lại, ngây thơ đáp.
“Nghĩ thêm nữa coi.” Mặt Lưu Chấn Hám đầy vẻ “bất hảo”, giương hai mắt nhìn chằm chằm bộ ngực no tròn của Hải Luân. Cô nhóc này tuy niên kỷ còn nhỏ, nhưng thân hình đã phát dục “quá trời quá đất”! Cái áo bào tế tự to thế mà thiếu điều che không hết cái chỗ chẳng nên che.
Hải Luân bị “tục nhãn” của Lưu Chấn Hám nhìn muốn rụng rời, mặt nóng bừng lên.
“Còn, ngoài ra còn...” Hải Luân nghĩ thật kỹ, rồi đáp tiếp: “Giống như Thạch chế ách linh để các sĩ binh dũng cảm trong Bỉ Mông vương quốc của chúng ta dùng để luyện tập.”
Lưu Chấn Hám có chút nuối tiếc, nghĩ đi nghĩ lại, nhớ lúc trước khi cởi y phục của Hải Luân, dường như không phát hiện món đồ chơi đó. Xem ra thế giới này chưa thiết kế ra thứ nội y dành cho thiếu nữ ấy. Hắn bất giác có chút thất vọng, cười hắc hắc hai tiếng bỏ cuộc.
“Hôm nay coi như xong, ngày mai chúng ta qua bên đó chặt cây làm thuyền!” Lưu Chấn Hám bảo


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui