Đường Mật về phòng, đốt đèn cùng Bạch Chỉ Vi đọc bút tích của Mục Hiển. Hóa ra lúc bé nhà lão nghèo không có sách đọc, vào Ngự Kiếm đường thì thích đến mượn sách, sách ở Tàng thư các có kết giới bảo vệ, không thể tùy hứng viết ở đó nên khi lão đọc đến chỗ hào hứng lại mang đi nơi khác chú vào một vài chữ, sau này lão thích viết lại cảm xúc, lâu dần gom những gì mình tổng kết được thành sách, chính là những thứ hai cô đang đọc.
“Chắc trước khi Mục điện giám đến Hoa Sơn chưa kịp chỉnh lý, mới còn trang rải rác thế này.” Đường Mật vừa giở vừa nói: “Không hiểu ý Mục điện giám là gì, trong hốc ngầm chỉ có cái bao màu lam và mấy thứ tạm coi là đặc biệt này, điện giám bảo ta xem rồi sẽ phát hiện manh mối nhưng ta đọc sách ghi lại cảm xúc thì tìm được gì?”
Bạch Chỉ Vi cũng không hiểu, ban đầu cô lật qua qua, toàn là sách đính lại theo từng loại, ví như sách loại về lịch sử đính thành một quyển, yêu vật thành ba quyển. “Theo thời gian đọc sách thì chí ít chúng ta cũng biết được điện giám xem sách gì, làm gì trước khi khứ thế. Hiện tại theo phân loại thế này, trừ biết được lúc còn sống điện giám đọc gì, thích gì thì còn tác dụng gì?” Chợt lòng cô sáng lên: “Ái chà, có phải điều Mục điện giám muốn bảo ngươi ở trong một quyển sách mà điện giám đã đọc, ít nhất cũng có ám ngữ gì đó chỉ dẫn, ngươi có thể từ đó tìm ra đúng cuốn sách.”
“Ừ, có khả năng, hoặc như kẹp một bức thư vào trong sách, điện giám có nhắc đến việc đó. Ban đầu ta cũng đoán thế. Cẩn đọc một lượt toàn bộ mới biết, hơn nữa khi gặp phải chỗ nào đó khả nghi thì phải đọc những sách liên quan, không hiểu đến năm nào tháng nào chúng ta mới bắt được tên khốn xấu xa đó.” Đường Mật thoáng ủ rũ.
Bạch Chỉ Vi nhìn gương mặt Đường Mật ẩn một nửa vào bóng tối, ánh đèn chao chát, linh hồn thiếu nữ nóng nảy hiện rõ, cô chợt thương cảm, cầm tay nó nói: “Không sao, ngươi chỉ nóng lòng quá thôi, chúng ta cùng đọc tất sẽ tìm ra.” Đường Mật ấm lòng, biết Bạch Chỉ Vi tuy không nói nhưng nhận ra điểm bất thường của mình từ lúc về Ngự Kiếm đường, liền mỉm cười vui vẻ: “Được.”
“Nhưng cũng phải tính đến cái bao đó.” Bạch Chỉ Vi lại nói: “Ta vẫn cho rằng không đơn giản là có người muốn đoạt vị trí của Mục điện giám, nếu chỉ như vậy thì khi Mục điện giám lâm tử sẽ có thời gian nói rõ với ngươi, chỉ nói một câu hoài nghi thì sẽ rõ ràng hết nhưng lại bảo ngươi vào hốc ngầm tìm tức là sự tình phức tạp hơn nhiều, nhất thời điện giám không nói rõ được, đành dựa vào ngươi tự tìm ra, tự xử lý.”
“Ta cũng nghĩ đến chuyện đó nên tối nay ta lén lấy về, lấy cả hai bức thư của Đọa Thiên, sự tình trong đó chúng ta cứ từ từ tìm hiểu.” Đường Mật bất chợt thở dài: “Thật sự không thể vội được.”
Quả vậy, nó thấy an lòng hẳn, chẳng phải nó không biết mình quá nóng lòng nên cuốn bằng hữu vào chốn Ma cung hiểm địa, nhưng về đến Ngự Kiếm đường là lòng nó lại bất an như quái thú ẩn dưới đáy hồ ngoi lên mặt nước, dù cố che giấu nhưng Bạch Chỉ Vi vẫn nhận ra. Nó chợt cảm hoài, lạc đến chốn xa xôi này mà vẫn có được tri giao như cô quả là may mắn của đời người.
Hôm sau, Ngân Hồ quả nhiên cùng chưởng môn và chư vị tông chủ, điện phán xuất hiện tại buổi tập trung sớm của Ngự Kiếm đường, khi Tiêu Vô Cực tuyên bố chức điện giám do Ngân Hồ kế nhiệm thì các kiếm đồng vì biết phong thanh nên không lấy làm lạ, đều lén liếc dáng vẻ khác thường của Tạ Thượng rồi nhìn nhau.
Tạ Thượng vào Ngự Kiếm đường, việc đầu tiên là chủ trì tế lễ Mục Hiển. Lúc đó toàn bộ kiếm đồng đã tề tụ nhưng đệ tử Thục Sơn ở các nơi và các lộ nhân mã đến tế bái nên chưa học gì. Năm nay Đường Mật lên Lễ Thủy điện, kiếm đồng của điện này và Tín Thổ điện trừ ban ngày trông coi linh đường thì ban đêm cũng phải chia ra coi sóc.
Tối đó đến lượt Đường Mật và Trang Viên phải trông linh đường, Trang Viên tuy thích náo nhiệt nhưng lúc yên tĩnh thì thích suy nghĩ những vấn đề huyền hoặc. Tùy tiện trò chuyện mấy câu, cả hai lại bàn đến vấn đề về tồn tại và hư ảo.
“Đường Mật, ngươi biết không, lúc ta mới đến Ngự Kiếm đường, có một đêm ngồi trong Ảo hải suy nghĩ vấn đề này, kết qua sa vào ngõ cụt, chìm trong trạng thái kỳ dị, tựa hồ xuất hiện ảo giác, không thể tự rút chân ra, may mà Cố tông chủ đi qua cứu giúp.” Trang Viên nói.
“Ngươi lớn mật thật, một mình dám đến Ảo hải vào ban đêm.” Đường Mật nói.
“Đúng, lúc đó sao ta lại không biết gì đến sống chết nhỉ? Hiện tại không còn can đảm đó, con người mà, biết càng nhiều càng nhát gan.” Trang Viên nói đến đó thì hạ giọng, hai má ửng đỏ: “Lúc đó mục đích của ta không đơn thuần.”
Đường Mật cười: “À, tiểu nha đầu ngươi còn mục đích gì không đơn thuần hả?”
Mấy nốt ruồi trên gương mặt trắng ngần của Trang Viên vì hưng phấn trông càng rõ hơn: “Lúc đó ta lần đầu tiên thấy nam tử như Cố tông chủ, mê mẩn hết mức, bắt đầu lưu ý đến tông chủ, kết quả phát hiện tông chủ thường đến Ảo hải vào ban đêm nên ta đến đó, nhỡ may gặp thì giả bộ sợ hãi để tông chủ đưa về, ha ha, thật sự đã xảy ra việc đó. Bất quá là việc lúc trẻ con thôi, hiện tại không còn gan dạ đó.”
Lâu lắm rồi Đường Mật không để mình nhớ đến Cố Thanh Thành, giờ Trang Viên nhắc đến, liền cố ra vẻ không để tâm nhìn ra ngoài linh đường, khẩu khí trêu chọc: “Ừ, ngươi lớn hơn bốn năm trước nhiều, chuyển thành thích nhóc con như Hoàn Lan.”
Trang Viên bật cười: “Ai cũng nói đùa thế nên ta đùa với ngươi luôn, thật sự vui vẻ hiếm có. Càng ngày càng thấy Trương Úy không tệ, năm ta vào Ngự Kiếm đường, y không thi qua được lần đầu tiên, cơ hồ ta không nhớ được y lúc đó, tựa hồ y không nói với ai bao giờ, cả ngày vùi đầu khổ luyện, hiện tại thay đổi nhiều rồi, phần lớn nhờ công ngươi và Bạch Chỉ Vi?”
Ánh mắt Đường Mật từ ngoài linh đường quay lại, cười ngọt lịm: “Ta cũng thay đổi nhiều, nhờ mọi người mà.” Đoạn nó xuất thủ điểm thụy huyệt Trang Viên.
Nó khẽ đặt Trang Viên xuống, nói với ra ngoài linh đường: “Ngươi vào đi.”
Một bóng người loáng lên ngoài cửa, còn gầy gò hơn trong ấn tượng của Đường Mật, người đó không bước vào, nói khẽ: “Sao cô nương biết là ta?”
“Ta vẫn nghĩ ngươi có đến thắp một nén hương không, nếu có tất sẽ đến vào lúc này.” Đường Mật nói với người đó: “Kỳ thật ngươi không cần đốt khi ta có mặt, vì trừ mấy bằng hữu tốt ra, ta không nói với ai là ngươi giết điện giám, người Thục Sơn đều không hiểu thật ra ngươi đi đâu, ngươi cứ chính đại quang minh xuất hiện tại Ngự Kiếm đường cũng không sao.”
Người đó không đáp, từ từ đi thêm mấy bước, dừng lại ở chỗ ánh đèn nhu hòa màu vàng cam trong linh đường giao hòa với bóng đêm, toàn thân chìm trong quầng tối, tựa hồ e sợ ánh sáng ấm áp. Một lúc mới nói: “Đa tạ.”
“Không cần, ta chỉ bảo vệ chính mình.” Đường Mật đáp, cầm hương châm vào lò lửa trường linh sàng, đặt vào tay thiếu niên trong quầng tối, đột nhiên nhìn thấy ánh mắt hổ phách lóe lên, lòng chợt thắt lại, lùi về quầng sáng.
Trong không khí tĩnh mịch dị thường, thiếu niên quỳ xuống thắp hương tế bái, thân thể cong lại như dã thú phòng bị, Đường Mật đứng ngoài thở dài, đón lấy nén hướng cắp vào trước linh đường, quay lưng lại nói với y: “Hà tất cẩn thận như vậy, ta đã đồng ý với bá phụ của ngươi là bỏ qua cho ngươi, sao ngươi vẫn không tin ai như thế?”
Sau lưng nó im lăng, nó cho rằng y đã đi, quay lại mới thấy vẫn ở đó.
“Từ bé ta vẫn cho rằng cha mình là người bình thường đã chết đi đó.” Y đột nhiên lên tiếng, không đầu không đuôi: “Nhưng mỗi năm ông ấy đều đến thăm ta, ông ta là người đánh bại Ma cung, được tất cả coi là đại anh hùng. Vì ông ấy hay đến, ta cho rằng ông ấy ít nhiều cũng thích ta, có một lần muốn thân cận với ông ấy trước mặt người khác, nhưng bị đẩy ra. Ngay cả tay mà ông ấy cũng không dùng, mà dùng nội lực cách không đẩy ta lui nửa thước. Dù sau này biết rõ thân thế, ta đến Thục Sơn cũng vì muốn trở thành một người không dễ bị ông ấy đẩy lui nữa.”
Đường Mật nhìn y, không hiểu sao y lại cho mình biết chuyện đó, chỉ nghe y nói tiếp: “Nhưng đến khi ông ta chết thì ta mới biết không phải vậy. Lúc đó họ bảo cô nương chết rồi.”
Y đột nhiên dừng bước, tựa hồ không muốn nói gì nữa, nhưng lại không đành giấu những lời đó trong lòng, trầm ngâm một lúc mới bảo: “Cô nương còn sống, hay lắm. Ta nợ cô nương.”
Đường Mật cũng thấy hơi bất an, lớn tiếng: “Vậy cho ta biết những gì ngươi biết đi.”
Y không ngoái lại: “Đấy là việc của ta.” Dứt lời thân ảnh tan biến vào bóng đêm. Suốt ba tháng, người giang hồ đến bái tế không ngớt, tận ngày hạ táng mà Ngự Kiếm đường không học được buổi nào. Bọn Đường Mật không được ngơi chân ngơi tay tí nào, vì nhân thủ không đủ nên ai cũng phải phụ trách một việc, tuy chỉ nhẹ nhàng như chỉ dẫn cho khách nhưng vẫn cứ phải ở gần linh đường suốt, coi như để thời gian trôi đi lãng phí.
Bất quá Đường Mật và Bạch Chỉ Vi có mang theo thủ bút của Mục Hiển, mỗi khi rỗi lại đem ra đọc xem có phát hiện được điều gì đặc biệt không, buổi tối nào không cần trông coi linh đường thì lại đến Tàng thư các đọc sách. Thành thử hai cô còn chăm chỉ gấp trăm ngày thường, trong vòng một tháng còn được nhiều sách hơn cả năm qua.
Coi như công sức không phụ người có lòng, hai cô tỉ mỉ tìm kiếm, sau cùng tìm được một việc khác thường trong mớ sách viết tay. “Nội dung sách Mục điện giám đọc rất mẫn cảm.” Đường Mật chỉ vào một quyển mới đóng được mười trang nói, nó thuận tay chỉ vào chất giấy, tuy còn dày nhưng hình như có từ lâu lắm rồi.
Bạch Chỉ Vi đón lấy đọc vài đoạn, nói: “Ừ, số sách này đều là tà thư, bàn về lục đạo luân hồi, cách khiến thân thể bất hủ, pháp thuật ở đỉnh cao nhất…. những thứ Thục Sơn chúng ta không cho phép bàn đến.” Đường Mật cũng biết thế, nếu theo quan niệm hướng về thân thể bất hủ thì gần như đi ngược với luân hồi chuyển thế, quan niệm phổ biến của người đời rằng kẻ vĩnh sinh bất tử bất nhập luân hồi đều là yêu nghiệt, vĩnh hằng chân chính chỉ đạt được qua con đường chính đạo là siêu việt lục giới đốn ngộ thành phật, rũ bỏ mọi sự vật hữu hình. Người Khí tông tuy theo đuổi dưỡng sinh nhưng tuyệt đối không nhắc đến “vĩnh sinh” mà hy vọng thông qua không ngừng dưỡng khí tu thần sau cùng sẽ đạt đến cảnh giới không linh kiểu đốn ngộ thành phật, còn có ai đạt đến mục tiêu này chưa thì Đường Mật không chắc. Muốn rũ bỏ mọi sự vật hữu hình thì trước hết phải bỏ mọi tham niệm, những ai chưa rũ bỏ được thì thứ đợi chờ là bại vong. Dù sao, Khí tông một lòng theo đuổi nội lực và tâm lực nên dạy dỗ được nhiều nhân vật cấp tôn sư nội lực thâm hậu, tâm lực tinh thuần vẫn được giang hồ nhắc tên.
“Ta thề chưa thấy những quyển sách này trong thư các.” Đường Mật vừa xem vừa nói, tuy nó không nhớ hết tên mọi quyển ở Tàng thư các nhưng cũng có ấn tượng mơ hồ, tên những cuốn sách này đều hoàn toàn lạ lẫm, tuyệt không thấy trong lúc chỉnh lý sổ mượn.
“Ngươi cũng không chỉnh lý toàn bộ, chẳng phải Âu Dương Vũ cùng góp một tay sao?” Bạch Chỉ Vi hỏi.
“Tuy là vậy nhưng sách kiểu này không thể tùy tiện đặt tại Tàng thư các cho người ta đọc.” Đường Mật nói.
Hai đến Tàng thư các tìm vào buổi tối, quả nhiên không ngoài sở liệu, sách không hề có tại đó. Đường Mật không hề kinh ngạc: “Ta biết nơi dễ có những quyển này nhất.” Đoạn kéo Bạch Chỉ Vi đi về hướng chính điện.
Lúc vào chính điện, thấy tứ bề không có ai, Đường Mật nói: “Ta có chìa khóa địa cung. Chỉ là lúc ta xuống thì ngươi trông chỗ này, địa cung không phải chỉ mình ta vào được. Theo ta đoán thì còn người nữa có thể mở được.”
Bạch Chỉ Vi cũng hơi nghi hoặc, biết Đường Mật đã giao chìa khóa của Mục điện giám cho Tạ Thượng. Với trí thông minh của y, tìm ra hộc ngầm chỉ là sớm muộn, còn chìa khóa thứ hai nằm trong tay chưởng môn Tiêu Vô Cực, thì chìa khóa thứ ba mọc ở đâu ra, nên cô hỏi: “Người thứ ba có thể mở được chỗ này là ai?”
Ánh mắt Đường Mật lấp lánh như bảo thạch trong bóng tối: “Nếu vạn nhất không phải chưởng môn và điện giám thả Thi vương vào địa cung thì nhất định còn người thứ ba vào được nơi đó. Ta cũng có chìa khóa thì không thể chắc chắn người khác không có, đúng không?” Bạch Chỉ Vi gật đầu, nảy sinh cảm giác càng gần chân tướng thì trong lòng càng hoảng sợ.
Cô không kịp nói gì thêm, Đường Mật đã nhảy đến lối vào địa cung. Sát na nhảy xuống, nó ngưng tụ tâm lực chống lại kết giới ảo ảnh của địa cung nên lúc vào tuy vẫn là thông đạo thăm thẳm ngoằn ngoèo nhưng không còn cảm giác khiến người ta phiền loạn đến hoảng sợ nữa, bước chân đặt lên nền đá mà lòng cực kỳ yên ổn.
Đi qua mỗi đoạn thông đạo, nó lại thấy một khung cửa đá đóng chặt, cạnh cửa là một hàng lỗ nhỏ. Đại đa số cửa không có khóa, dùng lực đẩy khẽ là mở ra, những sau cánh cửa thường là thạch thất trống trơn hoặc nối với một thông đạo khác. Nó vừa đi vừa đẩy, mấy lần thấy lối đi khác lại nảy sinh ý niệm rẽ sang nhưng nhớ lại lời Trương Úy nói lúc đi trong mê cung ảo cảnh, phương pháp thoát khốn là kiên trì đi theo một hướng, nên nó lại rụt chân lại.
Đi được một chốc, nó gặp cánh cửa đầu tiên cần chìa khóa, đẩy cửa nhìn vào thì là kiếm thất từng đến, nhìn đến miệng hố sâu hút, lòng nó thắt lại, nhớ đến những việc xảy ra dưới sâu lòng đất hôm ấy, gáy nó tựa như có gió lạnh lùa qua, ngoái nhìn thông đạo sau lưng, nhanh chóng khép cửa đi ngay.
Nó cứ vừa đi vừa đẩy cửa, ở ngã rẽ lại vẽ ký hiệu, không nhớ đã xem qua bao nhiêu gian thạch thất, qua bao nhiêu ngã rẽ, sau cùng cũng đến một gian bày tán loạn sách vở. Thoạt nhìn cũng nhận ra gian thạch thất này là phòng của một người, không lớn lắm, nhìn một lần là hết. Trên trường kỷ đặt mấy quyển sách và bút mực, tựa hồ chủ nhân không đi đâu xa, tùy lúc trở về cầm bút lên viết. Phía sau là mấy giá sách nhỏ bày mười mấy quyển sách cùng một đĩa đèn giống như đĩa đã bị hủy của bọn Đường Mật. Góc tường kê một cái giường phủ da hổ trắng và một cái tủ cao chừng nửa thân người, qua khe hở hoa văn hải đường trên cánh thì là tủ đựng quần áo.
Bước chân nó hơi ngần ngừ, có nên vào chỗ người khác ở không nhỉ? Bất quá đó là căn phòng duy nhất có sách mà nó thấy, trù trừ một lúc thì vẫn đi vào.
Nó lật mấy quyển sách trên trường kỷ và trên giá, quả nhiên có những quyển mà Mục Hiển nhắc đến, nắm được bảy phần chủ nhân thạch thất là ai. Nhìn xuống tờ giấy trên bàn, hóa ra là một bản văn thế, nét chữ nghiêng ngả nhưng không mất đi cốt khí, là bút tích của Vương Lẫm.
“Gặp người khi mới chưa đôi mươi, cùng du ngoạn Thục Sơn gặp nhiều kỳ ngộ, chỉ có việc gặp địa cung của người xưa là không dám quên. Còn nhớ năm đó người mỉm cười bảo rằng: Đất này đẹp quá, nếu ngày sau tội ác đầy mình, kẻ thù khắp thiên hạ thì sẽ ẩn thân ở đây, làm ác quỷ không thấy ánh mắt trời, mang lòng thấp thỏm đến già. Lúc ấy ta đáp: Nếu thế sẽ cùng người đến đây, cùng làm ác quỷ. Không ngờ việc đời không theo ý người, thi thể người không được an táng chốn này, những việc đó đều một tay ta gây ra, đành tự giam mình chốn này, không bao giờ thấy ánh mặt trời nữa để giữ lời đã nói khi xưa với ngươi.” Đường Mật đoán rằng văn tế này viết cho Hoa Tuyền, liền hiểu ra địa cung vốn là di tích Vương Lẫm và Hoa Tuyền cùng phát hiện, Vương Lẫm chọn nơi này lập lên phái Thục Sơn có phải vì thực hiện lời hứa năm xưa?
Nó vốn cho rằng nếu thi cốt Hoa Tuyền không còn nữa thì khả năng lớn nhất là được Vương Lẫm táng tại nơi nào đó, hiện tại xem ra không đặt ở đây, liền hiếu kỳ xem được đặt ở đâu. Đoạn dưới văn tế là một hàng dài cảm hoài, nó đọc đi đọc lại hồi lâu, chỉ thấy rằng nếu hai người có tình cảm nhưng không thể gán ghép là mấy chữ này ẩn chứa nhi nữ chi tình. Mỗi lần nghĩ đến việc Vương Lẫm và Hoa Tuyền có tình cảm nhưng rồi phải động thủ với nhau thì lòng nó nhói lên, như có sợi dây tơ bạc bền chắc quấn lên tim bị ai đó thít chặt, không đau đến nhập cốt nhưng cứ âm ỉ trong lòng. Giờ đọc được văn tế của Vương Lẫm theo đúng kiểu bằng hữu viết thế cũng được, người yêu viết thế cũng không sao, thì không biết nên vui mừng hay thất vọng.
Bức văn tế này khiến nó hiểu rằng thực sự có chiếc chìa khóa thứ ba. Vương lẫm có một chiếc thì Hoa Tuyền vì sao lại không có? Chiếc chìa khóa đó năm xưa lạc đến nơi nào sau trận chiến nước Triệu thì không biết được. Chiếc của nó từ đâu mà có? Nó nắm chặt cái lược tinh thiết, vật này do cây kiếm của Hoa Anh chế thành, quan hệ giữa Vương Lẫm và Hoa Anh rất tốt, có phải sau khi Hoa Anh khứ thế, Vương Lẫm lấy tinh thiết kiếm làm kỷ niệm, vừa hay vì nguyên nhân nào đó chìa khóa của ông ta bị hỏng nên dùng thân kiếm cải tạo thành chìa khóa, lúc nào cũng mang theo để kỷ niệm Hoa Anh? Nó biết đấy chỉ là suy đoán, sự thật từ trăm năm trước thế nào e rằng hậu thế vĩnh viễn không hiểu được hết.
Theo cách nghĩ này, nó chợt thấy cái lược của mình rất có thể do Xích phong tứ dực xà thích ra vào mộ huyệt lấy được tại lăng mộ Vương Lẫm, lăng mộ này tất có kết giới bảo vệ nhưng vì chuyển thế của ông ta xảy ra chuyện nên kết giới bố trí lúc còn sống yếu đi, yêu xà mới có cơ hội ra vào. Đường Mật đưa tay cầm đĩa đèn, nhớ Mộ Dung Phỉ từng bảo y đọc được hàng chữ “chúc mừng sinh thần lần thứ mười sáu” ở đáy đĩa đèn lấy được từ Xích phong tứ dực xà, bất giác cũng nhìn xuống đáy, đập vào mắt là hàng chữ tương tự, nó kinh hãi run tay, tí nữa không cầm vững đĩa đèn.
Đường Mật lấy đá lửa ra đốt lên ngọn đèn, nữ tử từng thấy trước kia lại xuất hiện trong ngọn lửa, yểu điệu thi triển Ma La vũ. Nó nhìn một lúc, cảm giác ngọn đèn này khác, quan sát nữ tử thanh lệ thi triển Ma La vũ ba lần liền vẫn không nói rõ được cảm giác đó là gì.
Nó vốn không hiểu vì sao ngọn đèn tận mắt thấy bị hủy đi rồi mà còn xuất hiện, giờ chợt máy động tâm niệm, tự hỏi: Ai bảo chỉ có một đĩa đèn, hai tỷ muội cùng sinh nhật cơ mà. Lập tức nó hiểu nguyên do cảm thấy hai đĩa đèn khác nhau, đã nhìn đĩa đèn có Ma La vũ không biết bao nhiêu lần, so với đĩa đèn hiện giờ thì tướng mạo hai nữ tử bên trong giống nhau nhưng nữ tử trong ngọn đèn trước đầy khí thế còn nữ tử trong ngọn đèn hiện tại yếu ớt hơn. Nếu đó là lễ vật tặng Hoa Tuyền thì đây nhất định là quà tặng Hoa Anh.
Nó chợt thấy hình như đã nắm được manh mối nào đó, hai ngọn đèn tặng cho hai tỷ muội vào năm mười sáu tuổi thì phải ở trong tay họ chứ sao lại quay về Thục Sơn? Càng nghĩ nó càng cảm thấy trong đồ vật nhỏ bé có từ trăm năm trước này ẩn tàng nhiều bí mật.
Đường Mật nhất thời không nghĩ thông hai ngọn đèn này đã trải qua những gì, đặt xuống đọc kỹ sách của Vương Lẫm.
Ai cũng bảo sách một người cất giữ nói lên sở thích của người đó, Đường Mật đọc cả một ngày sách mà Vương Lẫm để lại, chợt thấy mê hoặc: Ông ta sao lại thích đọc sách về tà thuật nhỉ?
Tà thuật là cách gọi của phái Thục Sơn hoặc danh môn chính phái, ví như Đường Mật thấy pháp thuật bất tử mà Hoa Anh và Hoa Tuyền tham khảo tại Triệu cung, trong đó pháp thuật yêu dị kiểu huyết tế là tà thuật tối điển hình. Người Thục Sơn cho rằng thiên địa ngũ hành chi khí tràn ngập trong thân thể người và cả thế giới bên ngoài. Trong thân thể, ngũ hành chi khí ngưng tụ hình thành khí quan, còn ngũ hành chi khí ở ngoại giới ngưng tụ hình thành vạn vật trong thiên hạ. Thực chất của pháp thuật là lấy thân làm môi giới, thông qua tâm lực tụ tập ngũ hành chi khí vô hình ở ngoại giới để thi thố pháp thuật. Còn tà thuật là lợi dụng huyết nhục, linh hồn, ác niệm làm môi giới để thi triển pháp thuật, hành động này bị Thục Sơn cực kỳ bài xích.
Đường Mật lúc mẫu thân Vương Lẫm mang thai không hiểu sao lại cư trú tại Thanh Nguyên tự, thời ấu thơ và niên thiếu đều sống ở đó, nên ai cũng bảo Đọa Thiên không bị ảo ảnh ảnh hường vì sinh ra đã được nghe phật âm. Không ai biết vì sao Vương Lẫm không gia nhập Thanh Nguyên tự làm tăng nhân mà tự sáng lập phái Thục Sơn. Võ công và pháp thuật của Thục Sơn tuy thành một phái nhưng vẫn còn dấu tích thoát thai từ phật gia, rõ ràng nhất là kết thủ ấn khi thi triển pháp thuật đều chiếu theo phật gia thủ ấn. Tuy điều đó khiến Thanh Nguyên tự hiện nay yếu hơn một chút ít nhiều kiêu ngạo nhưng chính vì như thế, hai thế lực cùng gốc trên giang hồ này mới tồn tại cạnh nhau yên ổn.
Vì thế nó cho rằng trong máu thịt mình, Vương Lẫm công nhận thế giới quan về lục đạo luân hồi, nếu không thì hà cớ khi thảo luận qua thư với Hoa Tuyền, dù không thể chứng minh luân hồi là có thật thì một người nói có một người nói không? Trong những ngày tháng sau cùng, vì sao ông ta còn nghiên cứu tà thuật này? Nó vừa đọc vừa nghĩ, lật lật mấy quyển sách trên bàn.
Những cuốn sách này khác hẳn sách được kết giới bảo vệ trong Tàng thư các, thỉnh thoảng còn xuất hiện một hàng chữ khiến người ta hoài nghi người đọc không phải người cẩn thận, có chỗ còn phê vào mấy hàng chữ cảm nghĩ của người đọc, nó biết là bút tích của Vương Lẫm, liền tĩnh tâm đọc kỹ.
Bạch Chỉ Vi đợi ở chính điện đến vô liêu, mơ mơ màng màng nhìn cánh cửa đóng kín. Gió đêm đầu xuân lành lạnh luồn qua khe cửa, như dao cắt vào da thịt khiến người ta không thể thật sự ngủ say. Cô không rõ mình đợi bao lâu, chỉ nhớ ăn tối sau thì đến Tàng thư các, không lâu sau thì đến đây, theo vầng trăng bên ngoài thì Mai uyển sắp đóng cửa rồi.
Dưới ánh trăng chợt xuất hiện một điểm đen, cô nhìn chằm chằm vào đó. Điểm đen ngày càng lớn dần, là một người ngự kiếm phi hành tới. Người đó đáp xuống bãi trống trước chính điện, tà áo màu nguyệt bạch phất phơ trong gió, chính thị tông chủ Khí tông Tư Đồ Minh. Một chốc sau, Cố Thanh Thành cũng ngự kiếm tới nơi, cả hai thong thả cười nói, tựa hồ đang đợi ai.
Thêm một chốc nữa, Tạ Thượng mặc áo bào xám tro cũng tới. Ba người hàn huyên một chốc, Tư Đồ Minh bảo: “Tà áo xám của Tạ sư thúc khiến mọi người liên tưởng đến phong thái năm xưa sư thúc còn làm chưởng môn, khi ấy Thục Sơn chúng ta huy hoàng biết bao, gần như tận diệt người ma giáo.”
“Vô Cực hành sự tuy bảo thủ nhưng cẩn thận hơn, trong hơn mười năm ta không có mặt, Thục Sơn chẳng phải vẫn ổn sao.” Tạ Thượng đáp.
Bạch Chỉ Vi nhìn mấy người qua khe cửa đại điện, không hiểu vì sao họ tề tụ ở đây, họ đều là cao thủ đỉnh cao, tuy cô không ẩn thân quá gần nhưng vẫn ép hơi thở thành cực khẽ. Họ không có ý vào đại điện, tựa hồ đang đợi ai đó, một lúc sau Tạ Thượng nóng lòng: “Vô Cực sao còn chưa đến?”
“Chưởng môn bận hơn nhiều, chi bằng chúng ta xuống đại cung xem sao.” Cố Thanh Thành đề nghị.
Tạ Thượng hừ một tiếng: “Không cần, ta đợi y.”
Bạch Chỉ Vi cả kinh, biết họ định cùng xuống địa cung, vội chạy đến cửa địa cung thò đầu xuống xem, chỉ thấy thông đạo dằng dặc, hai bên vách phát ra ánh sáng mờ mờ của huynh thạch, nào thấy bóng Đường Mật. Mấy cao thủ ngoài kia lúc nào cũng có thể tiến vào, cô lại không dám lớn tiếng gọi, cũng không dám chạy xuống tìm, dù thường ngày thông minh bậc nhất thì giờ cũng không nghĩ ra được cách gì.
Hồn thú, nếu ta có hồn thú thì tốt quá, Bạch Chỉ Vi nghĩ, lần đầu tiên buồn bã vì mình không thể triệu hoán hồn thú được.
Cô trốn sau một cây cột lớn, thử triệu hoán hồn thú, nhưng cũng như vô số lần trước, vẫn không thể gọi được vật gì. Kỳ thật, cô hiểu rõ tình trạng này, sát na triệu hoán hồn thú cần phải rũ bỏ mọi sức mạnh nhưng cô không thể làm được, dù chỉ một sát na.
Sức mạnh là thứ duy nhất cô thật sự có, như đứa trẻ cố giữ lấy đồ chơi, coi đó là giữ được toàn thế giới.
“Của con hết đấy, Chỉ Vi, con thích không?” Mẹ cô đã hỏi thế, rồi đẩy y phục đẹp đẽ hoặc đồ chơi hay ho đến trước mặt.
“Thích.”
“Vậy được, cầm lấy, đừng cho ai hết.”
Nhưng những tiểu hài tử đó đến, chúng là đệ đệ muội muội của cô, có đôi mắt tròn mà cô không có. Chúng bảo: “Tỷ tỷ cho bọn đệ/muội cái đó, tỷ tỷ, đệ/muội muốn lấy cái kia.”
“Lấy đi nhưng phải chơi với tỷ.”
Chúng cần lấy, cười hi hi, ôm chặt vào lòng rồi tản đi, chỉ để lại mình cô, vẫn không có gì.
Lúc mẫu thân tìm thấy, cô vẫn còn khóc, bà hỏi nguyên do rồi cốc đầu mắng mỏ một trận, dạy cô phải biết giữ vật của mình, đoạn sai người bắt mấy hài tử đó đến, mặc cho mẫu thân chúng ôm chân cầu xin thế nào cũng đánh cho chúng thừa sống thiếu chết. Từ đó, đệ đệ muội muội liền chuyển sang ở cùng tổ phụ.
Ngày chúng đi, có trốn sau cửa nhìn lén, mông mỗi hài tử đau đớn đến độ không ngồi xuống nổi, được nhũ mẫu ôm vào xe ngựa. Phụ thân sắp xếp xong xuôi, nhảy lên ngựa, đột ngột quay lại, ánh mắt cơ hồ xuyên thấu cánh cửa sơn đỏ: “Con nói với bà ta rằng thứ bà ta muốn không bao giờ đạt được đâu.” Lúc đó cô còn bé, không hiểu mẫu thân muốn gì nhưng thấy xe ngựa rời đi, sau cùng khuất bóng trong sương sớm, chợt nhận ra mình không có gì cả.
“Chỉ Vi, nếu lần sau khi rũ bỏ sức mạnh mà thấy khẩn trương thì nhớ đến ta là được.” Lúc Đường Mật nghe cô bảo không gọi được hồn thú thì kiến nghị như thế.
“Nghĩ thì có tác dụng gì?” Trương Úy nghi hoặc.
“Ta thường nghĩ đến Chỉ Vi, lúc thấy thì vui vẻ, không gặp thì nhớ mong. Ừ, đúng rồi, Chỉ Vi, nhớ đến đầu to cũng được. Đầu to, nói lại lời ta một lần xem nào, mau phát thệ đi.” Đường Mật hùng hổ nghiêng người về phía Trương Úy, ra vẻ uy hiếp.
“Hữu dụng hả?”
“Hữu dụng. Nói mau.”
“Vậy được Bạch Chỉ Vi, ta thề khi thấy ngươi sẽ vui vẻ, không thì thì nhớ mong.”
Trước mắt Bạch Chỉ Vi phảng phất hiện lên hình ảnh hai đồng bạn, liền bật cười, lòng lỏng hẳn ra, sát na đó cố tựa hồ cảm giác được một luồng sức mạnh khác từ đáy lòng trỗi lên, như tiểu thú đầy sinh cơ sắp phá kén chui ra, một cái tên đột ngột bật lên, cô gọi khẽ: “Thanh Dực.”
Trong tay cô có một con kỳ lân màu xanh đậm, trừ màu sắc và trên đầu mọc một cái u tròn xoe thì sáng vẻ giống hệt hồn thú của Trương Úy. Điểm khác biết trên đầu khiên cố biết hồn thú của mình là lân còn của Trương Úy là kỳ. “Nhân nghĩa chi thú cơ đấy.” Cô khẽ than, thoáng kinh ngạc với hồn thú của chính mình, lẩm bẩm: “Là rắn thì hợp tình hợp lý với con vật bé tí này hơn.”
Đường Mật đang chuyên tâm đọc sách, chợt cảm giác vạt áo bị kéo, một con thú nhỏ xíu màu xanh đậm đang kéo mạnh nó ra ngoài cửa, từ sau khi trúng kế của con khỉ thì đâm ra đề phòng những con thú có bề ngoài khả ái, liền hất mạnh con thú ra: “Ngươi muốn gì?”
Thanh Dực hóa ra rất cố chấp, lăn lộn dưới đất bò dậy, tiếp tục kéo chéo áo Đường Mật.
“Ngươi gọi ta ra ngoài?” Đường Mật hỏi.
Thanh Dực gật đầu, tiếp tục kéo Đường Mật ra ngoài, nó nghi hoặc, đặt sách xuống, ra đến ngoài cửa thì nghe thấy tiếng Tạ Thượng trong thông đạo: “Cuối con đường này là có ngã rẽ.”
Đường Mật cả kinh thò đầu ra, không thấy ai dù tiếng nói khá gần, nếu lúc này mà ra thế nào cũng chạm mặt nhau, nhưng muốn tránh thì quả thật trong gian phòng không có nơi nào trốn được.
“Ở đây.” Là giọng Cố Thanh Thành, hình như y mới vào.
Đường Mật không kịp nghĩ gì nữa, không hiểu mấy người này đến đây với mục đích gì, bản năng cho nó biết quyết không thể để họ biết nó ở đây, liền vội đóng cửa đi một vòng trong phòng, ôm Thanh Dực đến sát tường, nắm chặt cái lược tinh thiết, ngưng tụ tâm lực thi triển ảo thuật. Nó biết hiện giờ chỉ còn biết dựa vào sức mạnh kinh nhân của kiếm hồn, thầm niệm: “Kiếm hồn chẳng phải đều bảo vệ chủ nhân đã nhận sao? Ngươi nhận ta đúng không? Mau thi triển ảo ảnh chi tường.”
Đúng, một bức tường, một bức tường, ta cần một bức tường, nó bất an cầu khấn, đành liều một phen vậy, những người đó sẽ đi vào gian phòng mà không phòng bị gì. Nó biết kiếm hồn chi lực có mạnh hơn nữa thì sức mạnh của kiếm chủ không đủ cũng không thể thi triển ảo ảnh quá mạnh, muốn hạt được cao thủ cỡ Tạ Thượng, Cố Thanh Thành thì hy vọng duy nhất là họ vì vào căn phòng Vương Lẫm ở lúc sinh tiền chứ không phải vào trận địa của địch nên không cảnh giác, bằng không nó đừng hòng thoát khỏi bị bắt tại trận.
Cánh cửa đá từ từ mở ra, tim nó nhảy lên trong ngực, nó quay lưng tựa vào bức tường hư vô, nhìn ra cửa, vừa hay gặp ánh mắt Tạ Thượng. Y quét mắt một vòng, không hề dừng lại ở vị trí của nó mà bảo: “Vào đi, nơi này vẫn giữ nguyên dạng như lúc Đọa Thiên đại nhân khứ thế.”
Nó thở phào, biết Tạ Thượng không nhận ra bức tường chỉ là ảo ảnh, coi như nó qua được ải đầu tiên nhờ bức tường này.
Tiếp đó Tiêu Vô Cực và Tư Đồ Minh đi vào, ánh mắt quét qua chỗ Đường Mật, không hề tỏ vẻ gì lạ. Người vào sau cùng là Cố Thanh Thành, định nhấc chân bước qua ngưỡng cửa thì bàn chân còn trên không chợt hơi ngừng lại trước khi đặt xuống đất, nhưng y không nhìn nó mà đi thẳng đến trước mặt mấy người kia.
Đường Mật vừa định thở hắt nốt nửa ngụm khí thì Cố Thanh Thành đột ngột quay đầu lại, trong mắt đen như mặc ngọc thông qua hư vô chi tường do ảo ảnh kết thành nhìn nó im lặng.
Đường Mật tin rằng lúc đó không phải nó nhìn nhầm, Cố Thanh Thành thật sự nắm bắt được ánh mắt nó, yên lặng một lúc rồi mới quay đi.
Tư Đồ Minh cầm ngọn đèn lên đưa cho Tạ Thượng: “Tạ sư thúc, đây rồi, quả nhiên bị giấu ở đây. Lúc đó mấy người bọn tiểu điệt thấy nó trong mộ Đọa Thiên đại nhân, không ngờ Mục đại lấy nó ra.”
Tạ Thượng quan sát ngọn đèn hồi lâu, miết nhẹ lên ngọn nến trong đèn, ánh lửa liền lấp lóe, mỹ nhân trong đèn khẽ múa. Y nhíu mày: “Có kiếm đồng tên Trương Úy nói với ta là cùng đồng bạn lấy được vật này trong bụng Xích phong tứ dực xà, sau đó các ngươi hủy đi, sao lại còn một đĩa đèn ở đây? Vì sao các ngươi vào lăng tẩm của Đọa Thiên đại nhân?”
Tư Đồ Minh đáp: “Lai lịch đĩa đèn đó thì bọn tiểu điệt không rõ. Khi thấy đĩa đèn, ai cũng cho rằng không nên để lại vật của tà ma, sau đó Mục nhị bị ma tướng Thi vương giết, Mục đại hoài nghi kết giới ở địa cung lỏng lẻo, yêu vật vào được nên mấy người bọn tiểu điệt mới kiểm tra bốn khung cửa dưới đất, đều được bảo vật phong bế chặt chẽ. Năm xưa chuyển thế của Đọa Thiên đại nhân xảy ra chuyện, mấy người bọn tiểu điệt thương nghị rằng không nên quấy nhiễu lăng tẩm của ngươi, nên chỉ dùng sức của mấy người gia cố phòng ngự, bốn khung cửa này không mở được nên không ai để ý. Sau khi xem xét lại, Mục đại vẫn không yên tâm, thuyết phục bọn tiểu điệt theo di tín của Đọa Thiên đại nhân đế lăng tẩm xem thử, ngọn đèn này có ở trong mộ nhưng không ai lấy ra.”
“Sau đó phát hiện ngọn đèn không còn nữa bằng cách nào, ai đến lăng tẩm?” Tạ Thượng hỏi.
“Cực có đến đó.” Tiêu Vô Cực đang thuận tay lật mấy cuốn sách, khẩu khí cực kỳ tùy ý.
Tiêu Vô Cực và Tạ Thượng vừa lên tiếng, bầu không khí liền trở nên cổ quái. Tạ Thượng là sư phụ của lão kiêm chưởng môn tiền nhiệm, hiện giờ lại địa vị bình đẳng, nhưng bối phận thì không thể loạn xạ được. Tiêu Vô Cực nắm Thục Sơn hơn mười năm, cùng lứa với Tư Đồ Minh và Mục gia huynh đệ, ngày thường vẫn gọi thẳng tên nhau hoặc xưng hô thân cận kiểu Mục đại Mục nhị. Gặp đệ tử hoặc người ngoài, Tiêu Vô Cực đều được cung kính gọi là chưởng môn hoặc sư phụ, bản thân lão lâu lắm rồi không mở miệng nói ra hai tiếng “sư phụ”, còn với Tạ Thượng thì tất nhiên không thể tùy ý xưng hô, bảo phải cung kính gọi là ‘sư phụ’ hoặc ‘Tạ điện giám’ thì lão không quen. Lão đành cố ý tránh không nói gì với Tạ Thượng nữa.
“Vì sao lại đi?” Tạ Thượng hỏi.
“Mục Hiển có lẽ bi thương quá độ vì huynh đệ qua đời, lúc thảo luận về luân hồi chuyển thế thì đầu óc đầy ý tưởng tà ma, cho rằng bản thân y nhận thấy Đọa Thiên đại nhân cũng không dám chắc về khả năng chuyển thế của mình, còn bảo nên vào trong mộ xem sao. Vì thế Cực không yên tâm, phải đến đó xem.” Tiêu Vô Cực đáp.
“Tuy chìa khóa tĩnh thất này do điện giám Ngự Kiếm đường giữ nhưng lịch đại điện giám đều tuân thủ truyền thống không tự tiện vào đây. Còn Mục điện giám hiển nhiên ra vào nhiều lần, còn giấu cả đồ vật, dù thế nào cũng khó biện bác.” Cố Thanh Thành lên tiếng.
Tạ Thượng gật đầu, lại hỏi Tiêu Vô Cực: “Lúc mới đến Ngự Kiếm đường ta có hỏi ngươi về việc Đọa Thiên chuyển thế, đó là việc lớn nhất của Thục Sơn chúng ta, sao ngươi không đáp?”
Năm xưa Tạ Thượng là vị sư phụ nghiêm khắc, hiện thời nói năng vẫn mang khẩu khí chất vấn đồ đệ, Tiêu Vô Cực tuy không vui nhưng ngoài mặt vẫn cung kính: “Vì mấy người bọn Cực cũng không nói được là tại sao. Năm đó theo đúng lời Đọa Thiên đại nhân bày Ngũ hành trận tại Tị thất, ban đầu thấy một thân ảnh mơ hồ rồi vang lên tiếng nổ, ánh lửa ngút trời, sau đó tất cả lặng tắt. Mục Hoảng cho rằng chuyển thế của đại nhân chắc đã chết rồi, Cực tuy không dám định luận như vậy nhưng đã lâu không thấy chuyển thế giáng lâm, cũng biết nhất định xảy ra bất ngờ.”
Tạ Thượng nhìn Tư Đồ Minh và Cố Thanh Thành, hai người gật đầu, y tiếp tục: “Việc này chúng ta tra xét sau, ngọn đèn này cần đưa lại về mộ Đọa Thiên đại nhân, Thục Sơn lăng viên là nơi địa nhân và tiên hiền các đời yên nghỉ, vốn là cấm địa, không thể bị phiền nhiễu, cũng may Mục Hiển sắp hạ táng, đèn này tạm thời do ta bảo quản, ngày hạ táng sẽ trả về nguyên vị.”
Tạ Thượng lên tiếng, khẩu khí đượm vẻ hiệu lệnh chúng nhân, mấy người kia đều gật gù rồi rời khỏi thạch thất. Đường Mật từ đầu đến cuối chỉ nhìn Cố Thanh Thành nhưng y không nhìn nó thêm lần nào, đến liếc khẽ cũng không. Hiện tại nó không còn lòng dạ nào tìm hiểu xem y có nhìn thấy mình không, nhìn thấy thì sao lại không lật tẩy, cảm giác tim đập thình thịch như người đào vàng đột nhiên phát hiện khoáng mạch, hưng phấn muốn kêu lên.
Nó nén kích động, đến khi mấy người đi xa rồi mới thở phào, ôm Bạch Chỉ Vi đang chạy tới, lớn tiếng: “Chỉ Vi, y lộ sơ hở rồi, tự y nói ra.”
Bạch Chỉ Vi nhìn nó với vẻ không hiểu gì: “Ngươi không bị phát hiện, thế nào, ai nói gì nữa?”
Nó thầm nghĩ giờ không thể giấu việc Đọa Thiên chuyển thế đã chết, hơn nữa Bạch Chỉ Vi vốn có khả năng chống lại đả kích, không dễ bị giật mình, liền kể lại những gì đã thấy trong địa cung. Nhưng nó kể rất nhanh, gom cả mớ tin tức cho Bạch Chỉ Vi khiến thiếu nữ nhanh nhạy thông tuệ đó cũng nhíu chặt chân mày, nhãn thần mê hoặc, nghe xong toàn bộ liền dừng lại hồi lâu mới hỏi: “Ừ, Đường Mật, thật ra ai để lộ sơ hở?”
Đường Mật thở hắt ra, chỉnh đốn tâm tư hỗn loạn vì kích động: “Ngươi còn nhớ tám việc ta bảo là phán đoán sai lầm không? Một trong số đó là khi con khỉ đưa ta đi xem một vài hành động cổ quái của Mục điện giám như dùng pháp thuật gần như tà thuật lấy ngọn đèn từ dưới đáy hồn Ảo hải lên. Hiện tại thì lúc đó Mục điện giám đang tra xét việc Thi vương và Đọa Thiên chuyển thế, kẻ chủ mưu cũng biết điện giám làm vậy bằng không sẽ không để con khỉ đưa ta đến vào lúc thích hợp như thế? Ban nãy ta bảo ngươi ai nói ra điều đó nhỉ, còn biết cả Mục điện giám lấy ngọn đèn đi?”
Bạch Chỉ Vi nhìn vào đôi mắt lấp lánh của bằng hữu, rõ ràng đang nóng lòng đợi đáp án của mình, bèn hơi do dự: “Là… là chưởng môn.”
Đường Mật nghe thấy đáp án cần nghe, hưng phấn vung quyền trên không: “Đúng, là ông ta.”
“Nhưng Đường Mật, còn nhiều việc chưa thông, ví như mục đích ông ta làm thế để làm gì. Hiện thời mà xét, Ngân Hồ quay về hình như không có gì tốt đẹp với chưởng môn cả. Hơn nữa ngươi suy đoán cũng không chặt chẽ, ngươi biết thì có lẽ người khác cũng biết Mục điện giám làm gì, chưởng môn không phải người duy nhất biết những việc này.” Bạch Chỉ Vi nhớ lại trận cãi vã giữa Đường Mật và Trương Úy về Sử Thụy, tuy trong lòng cố kỵ nhưng vẫn cố dùng khẩu khí thương lượng nói ra.
Đường Mật cũng biết trước đây mình đoán lầm nhiều việc nên lần này không thấy bị đả kích: “Đúng, ngươi nói đúng hết. Ta biết vấn đề của mình là có lúc dựa vào trực giác và linh cảm đi tìm đáp án, nên ta chỉ tạm giả thiết chưởng môn có vấn đề. Trong đó còn nhiều việc chưa giải được, ví như Mục điện giám xuống đáy hồ làm gì? Vào mộ lấy đĩa đèn với mục đích gì? Nói chung phải làm rõ từng việc mới đi đến kết luận được, bất quá chí ít chúng ta cũng có thể chờ xem chưởng môn có chứng minh được mình trong sạch hay không?”
“Sao lại thế?”
“Ngày mai đi hỏi Mộ Dung điện phán.” Hôm sau, hai cô tìm gặp Mộ Dung Trinh Lộ, giả đò không có việc gì đến trò chuyện vãn, nhắc đến biểu hiện đặc sắc của nhóm Đường Mật khi tỷ võ năm ngoái, Đường Mật mượn cơ hội: “Kỳ thật phương thức tuyển đó giúp muội rất nhiều, ví như để Mục điện giám tuyển ba kiếm đồng tham gia tỷ võ hoặc cho phép các đệ tử thủ hiếu cũng đi thì làm gì đến lượng tổ muội lên Hoa Sơn.” Đoạn nó cười ngọt ngào: “Mộ Dung tỷ tỷ, cách đó nhất định do tỷ nghĩ ra, tỷ tốt quá, thiên vị hết cỡ.”
Mộ Dung Trinh Lộ cười bảo: “Sao có thể, ta muốn giúp con nhưng việc này sau cùng do Mục điện giám và chưởng môn quyết định, những người khác chỉ đề xuất kiến nghị mà thôi.”
Đường Mật ngầm giữ tay Bạch Chỉ Vi.
Bạch Chỉ Vi hiểu ý Đường Mật, việc này nằm trong tám việc nó từng phân tích – theo phương thức tỷ võ đó, kẻ chủ mưu chỉ cần nghĩ cách khiến Đường Mật tăng tiến võ công rồi thắng lợi, thuận lợi cho nó mang Vị Sương kiếm yểm hộ con khỉ có yêu khí vào Hoa Sơn. Hiện giờ trong tám việc có tới hai nhắm vào Tiêu Vô Cực, tuy còn nhiều việc chưa thông nhưng cô cũng thấy Tiêu Vô Cực đáng hoài nghi.
“Ngươi định thế nào?” Bạch Chỉ Vi hỏi, sau khi Mộ Dung Trinh Lộ đi khỏi.
Lúc đó Đường Mật đang chống cằm ngồi trên rễ một gốc cổ thụ tại Ngự Kiếm đường, nhìn phan chiêu hồn trắng xóa đến xuất thần: “Để ta nghĩ xem sao, dù sao ta cũng thấy mới tìm được một phần của núi băng, hôm đó Cố tông chủ tại thạch thất nếu nhìn thấy ta thì hành động thật kỳ quái, Ngân Hồ bị gọi lại cũng thật kỳ quái, ngọn đèn đó là sao nhỉ…” Giọng nó nhỏ dần, sau rốt gần như hoàn toàn biến thành lẩm nhẩm. Chợt nó vỗ đùi, ảo não thốt lên: “Không được, còn nhiều việc chưa nghĩ thông, chúng ta đến mộ Đọa Thiên đại nhân một chuyến đã, xem phát hiện được gì trong đó không rồi tìm cách đến đáy hồ trong Ảo hải, chưa đến những chỗ đó thì còn nhiều việc chưa thông.”
Bạch Chỉ Vi tự biết mình không phải người giữ quy củ nhưng vẫn bị ý tưởng muốn vào mộ Đọa Thiên của Đường Mật khiến cho giật mình: “Nhất định phải vào mộ địa của Đọa Thiên đại nhân sao? Chi bằng chúng ta vào cái hồ ở rừng Ảo hải xem sao.”
“Không được, không được, Mục điện giám đến mộ địa trước thì chúng ta cũng nên đến đó trước, nếu hiểu rõ điện giám định làm gì thì chúng ta có thể theo đó, điện giám đến đọc sách thì chúng ta đọc sách, đến mộ địa thì chúng ta cũng đến. Chỉ cần hiểu được điện giám định làm gì tất sẽ hiểu vì sao có người muốn diệt trừ điện giám.” Đường Mật nói đoạn, lại nhớ ra việc mình hoang xưng Ma vương liên lụy đến đồng bạn, giờ còn tự tiện vào lăng viên tất sẽ bị trục xuất khỏi Thục Sơn, vội nói: “Việc này để mình ta đi, có gì thì mình ta chịu.”
Bạch Chỉ Vi mỉm cười lắc đầu, không nói đồng ý hay không: “Ta không nói đâu, ngươi hỏi Trương Úy, Mộ Dung Phỉ và Hoàn Lan xem có bỏ ngươi một mình không.” Đường Mật hiểu ý cô, chợt cảm thấy ấm áp, ôm lấy thiếu nữ mỉm cười trong bóng tối. Linh cữu Mục Hiển hạ táng đúng lễ nghi, đội ngũ thiếu niên đưa tang dài mấy dặm, uốn lượn trên sơn đạo Thục Sơn, như dòng sông bi thương chầm chậm chảy.
Tiếp đó bầu không khí Ngự Kiếm đường dần đượm sinh cơ theo thời tiết tháng Tư. Tất cả đều trở lại bình thường, các kiếm đồng tiếp tục luyện tập, lúc đi trên dãy bậc đá các lam y thiếu niên và hồng y thiếu nữ thi thoảng vẫn nhìn sang hai bên, hi vọng phát hiện ra nhánh cỏ đồng quả đầu tiên chuyển đỏ.
Trên hàng bậc đá trước Lễ Thủy điện, Sử Thụy ngồi trong ánh hoàng hôn ngày xuân vàng rực, đọc tờ giấy viết: “Sơn hữu mộc hề, mục hữu chi, tâm duyệt quân tâm hề, quân bất tri.” (Vốn là hai câu trong bài Việt nhân ca, tạm dịch: Non có cây chừ, cây có cành chừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không?). Đấy là bài tình cao lưu truyền rộng nhất trong dân gian, y đọc đi đọc lại, óc lóe lên linh quang: Có phải Bạch Chỉ Vi thật ra cũng thích ta, chỉ là không tiện nói ra miệng? Không hẳn không có khả năng này, con gái hay xấu hổ mà.
Nhắc lại việc bị Đường Mật hoài nghi, thứ khiến y đau lòng nhất là suốt quá trình đó Bạch Chỉ Vi luôn đứng về phía Đường Mật, mỗi lần nghĩ đến là y lòng lạnh tro tàn. Nhưng lần này tình ý vốn tưởng cạn hết lại chực dấy lên.
Lúc đó Trương Úy, Bạch Chỉ Vi và Đường Mật rời Lễ Thủy điện, đều mệt mỏi vì kết thúc môn học pháp thuật phòng ngự, không hẳn vì môn học hao phí tâm lực mà vì cả điện phán ở điện này yêu cầu rất nghiêm, đốc xúc các kiếm đồng chuẩn bị cho ngũ đại điện thí năm tới. Đường Mật thấy Sử Thụy đợi liền tỏ vẻ vui mừng: “Sử Thụy, thế nào hả, lấy được không?”
Y đưa tờ giấy có chép tình ca tới, nói: “Tất nhiên, Sử Thụy ta ở Ngự Kiếm đường này, từ điện giám đến tạp dịch đều có giao tình. Còn không được sao.” Đoạn lén liếc thần sắc Bạch Chỉ Vi đứng cạnh đó.
Đường Mật đón lấy. Tờ giấy viết “Canh hai hôm nay, phía sau Tín Thổ điện, ở dưới gốc cây, Tôn Phúc ở Tùng uyển.” Nếu nhìn kỹ thì mấy chữ này khác với kiểu chữ viết thư tình, bèn nói: “Mấy chữ này do ngươi viết theo, không phải Phúc bá viết. ”
“Ừ, mấy chữ đó không giả được, ta đành tự bù vào, rõ chưa?”
“Không sao, Tần ma ma tất không nhận ra.” Đường Mật cười ranh mãnh, vẩy tờ giấy: “Chốc nữa ta sẽ dùng phi tiêu ném vào phòng Tần ma ma, tối nay chúng ta có thể ung dung ra ngoài.”
Sử Thụy có phần ganh tỵ: “Có mang ta theo được không?”
“Không được, võ công của ngươi còn kém, thôi vậy.” Đường Mật đáp, Sử Thụy thở dài, thoáng buồn bản thân không chú tâm học võ.
Dùng cơm tối xong, trời chưa tối hẳn, bọn Đường Mật ra khỏi Ngự Kiếm đường, đứng ở dãy bậc đá thông lên Vô Lượng phong đợi Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ. Thoáng sau, hai gã lần lượt tới, năm đứa liền lẩn vào rừng, tìm bãi đất trống ngồi xuống nghe Đường Mật kể lại những phát hiện gần đây.
Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ đều từng trải, nhưng nghe nói chuyển thế của Đọa Thiên chết rồi thì kinh ngạc không biết phản ứng thế nào. Mộ Dung Phỉ định nói gì đó nhưng lòng trống rỗng, tựa hồ mất đi thứ lâu nay vẫn tin vào.
Phản ứng này Đường Mật từng thấy ở Trương Úy, tuy không ai nói ra miệng nhưng người Thục Sơn đều tin rằng dù xảy ra chuyện gì thì sẽ có ngày Vương Lẫm sẽ chuyển thế quay lạ. Đấy là một loại tín ngưỡng, không cần phải thốt ra đầu môi chót lưỡi nhưng ai cũng tin tưởng.
Đối với nó, cũng như Ngụy vương Hoàn Thương nói, trừ bức thư trứ danh ở Thanh Nguyên tự ra, không tìm được chứng cớ nào về việc Vương Lẫm cùng Hoa Tuyền tự xưng là Đọa Thiên hoặc Ma vương, còn phong thư ở Thanh Nguyên tự hiện giờ không biết nơi nào, nhưng danh hiệu tựa hồ là thần linh đó đều do những kẻ ủng hộ tình nguyện gọi. Nó vốn không thích lắm về việc Vương Lẫm được thần hóa và Hoa Tuyền bị yêu ma hóa, vỗ vỗ vai Mộ Dung Phỉ: “Chuyển thế rồi lại sụp đổ, đây là thế giới của chúng ta cơ mà.”
Nó vì không muốn bầu không khí quá nghiêm túc nên khẩu khí câu này nhẹ tênh, nhưng Mộ Dung Phỉ và Hoàn Lan lại chấn động thần sắc, cả Bạch Chỉ Vi và Trương Úy cũng hơi biến sắc. Đường Mật nhún vai: “Các đồng chí, chúng ta chủ nhân tương lai của thế giới, nhưng lời thế tục này ta ngại nói lắm, ngàn vạn lần đừng sùng bái ta.”
Các thiếu niên đều mỉm cười, trong sát na, mỗi cá nhân tựa hồ cảm giác được kiếm trong bao hơi rung lên, phát ra tiếng ngân đầy khát vọng.
“Cô nương định thế nào?” Mộ Dung Phỉ hỏi.
Mấy hôm nay Đường Mật vẫn chỉnh lý cách nghĩ, bèn đáp: “Thứ nhất ta cho rằng Tiêu chưởng môn đáng nghi nhưng không nhất định là ông ta. Thứ hai, nếu lúc đó Cố tông chủ thấy ta mà không lật tẩy, vậy thì…” Nó chợt ngừng lại, nhận ra tuy nghĩ rất thấu đáo nhưng nói ra trước mặt người khác lại là một chuyện, khẽ thở dài: “Vậy tông chủ cũng đáng nghi, hơn nữa rất có thể là người Ma cung.”
“Mấy hôm nay ta vẫn lần mò tìm hiểu xem lúc Mục điện giám sinh tiền làm gì, đến cả tĩnh thất dưới địa cung đọc sách, đến giờ mới tạm tìm ra.” Nó nhìn chúng nhân: “Nếu ta là Mục điện giám, thấy Thi vương vào địa cung thì sao lại không tìm hiểu? Thứ đầu tiên điện giám nghĩ tới là do Đọa Thiên chuyển thế thất bại, pháp thuật trấn yêu đại nhân để lại cũng mất hiệu nghiệm hoặc pháp thuật bảo vệ lỏng lẻo, và thực tế điện giám cũng giải thích như vậy với ta. Tuy trong di tín của Đọa Thiên có nói về cách bố phòng nhưng chắc không đủ giải đáp nghi vấn cho Mục điện giám. Để tìm hiểu nguyên nhân Đọa Thiên đại nhân làm gì trong giây phút sau chót hoặc để tìm ra cách tốt hơn bảo vệ Thục Sơn, điện giám mới bất chấp cấm kỵ, đến tĩnh thất và lăng mộ. Ở những nơi này, điện giám phát hiện vài việc không tầm thường, hơn nữa đã thảo luận với Tiêu chưởng môn. Chúng ta không biết những phát hiện ở mộ địa là gì nhưng ở tĩnh thất thì ta có biết sơ qua.”
“Ngươi muốn nói đến việc Tiêu chưởng môn và Mục điện giám thảo luận tà thuật?” Bạch Chỉ Vi hỏi.
“Có thể điện giám cũng như ta, hiểu được vì sao Đọa Thiên đại nhân xem sách về tà thuật.” Đường Mật cho rằng những lời tiếp theo khiến người ta khó chấp nhận, hơn nữa tất cả mới là những thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, song vẫn quyết định nói ra. Để tránh quá đột ngột, nó hỏi: “Các ngươi còn nhớ tám việc ta ngộ ra không, lúc đó chúng ta đều kỳ quái vì sao pháp thuật của Ma vương và Đọa Thiên đại nhân chết rồi mà vẫn tiếp tục tồn tại, còn cả hồn thú của Ma vương không hề tiêu vong.”
“Đúng, còn nhớ.”
“Hồn thú thì ta không hiểu, nhưng kết giới ảo ảnh bảo vệ Ma cung là vì Hoa Anh công chúa tìm được vẫn thạch có thể duy trì sức mạnh, còn Thục Sơn chúng ta là dựa vào tà thuật mới duy trì được, bất quá tà thuật này chỉ kéo dài được trăm năm. Về điểm này, người thi triển thuật, cũng là Đọa Thiên đại nhân hiểu rất rõ.” Truyện "Thục Sơn Thiếu Niên " được từ diễn đàn Lương Sơn Bạc ()
Thần sắc bốn thiếu niên trấn định hơn Đường Mật liệu tưởng, Hoàn Lan nói: “Ừ, liên quan đến tà thuật hay không không quan trọng, nếu đại nhân không biết là chỉ duy trì được trăm năm tất không để lại thư.”
Thấy khả năng chấp nhân của các đồng bạn không tệ, nó tiếp tục: “Mấy hôm nay, ta đọc hết những lời ghi chú trong sách, tuy đều thuận tay ghi bên lề sách nhưng đọc nhiều thì hiểu được ý nghĩ lúc đó của đại nhân. Với Đọa Thiên đại nhân, câu hỏi đau đáu nhất là làm cách nào ức chế ma huyết, có thể đó là nguyên nhân ban đầu khiến đại nhân đọc sách tà thuật. Hình như đại nhân thử rất nhiều cách nhưng không tìm được các nào chắc chắn, cơ hồ hao phí chút tinh lực cuối cùng của đại nhân, trước khi lâm chung phải dùng đến một cách nhưng không chắc chắn mười phần.”
“Từ điểm này thì Ma vương chiếm thượng phong ở đòn sau cùng.” Bạch Chỉ Vi chen lời.
Đường Mật gật đầu tán đồng: “Đúng, đại nhân hiểu rõ năng lực của mình, pháp thuật thi triển ra chỉ duy trì được trăm năm nên luôn hy vọng tìm được phương pháp nào đó chứng minh con người thật sự có thể luân hồi chuyển thế, thậm chí là khống chế luân hồi chuyển thế, để bản thân quay lại Thục Sơn vào trăm năm sau khi mình chết đi. Nhưng sau cùng không tìm được, hơn nữa cũng bắt đầu lay chuyển quan niệm về luân hồi chuyển thế.”
“Sở dĩ, Mục điện giám đọc được, bị Đọa Thiên đại nhân ảnh hưởng nên mới viết lại những thứ này?” Bạch Chỉ Vi chợt ngộ ra, “những thứ này quá ư kinh nhân, cộng thêm chuyển thế của đại nhân xảy ra biến cố, nên điện giám mới đến bàn cùng chưởng môn?”
“Đúng, khả năng này lớn nhất.” Đường Mật đáp: “Mục điện giám nhất định càng tra xét càng mê hoặc, để tìm đáp án cho nhiều câu hỏi, tất phải đến mộ địa và hồ Ảo hải, nếu phát hiện sự tình đúng như ta suy đoán thì động cơ chưởng môn giết diện giám coi như đã xuất hiện.”
Nó lại nhìn chúng nhân: “Họ quen nhau lúc còn thiếu niên, ở Ngự Kiếm đường, Mục điện giám thích mày mò, nảy sinh ý nghĩ kinh thế hãi tục gì cũng không lạ, nhưng Ngọc Diện có bảo Tiêu chưởng môn từ bé đã sùng bái Đọa Thiên đại nhân, nếu Mục điện giám có nói với ông ta rằng Đọa Thiên đại nhân sử dụng tà thuật, không tin vào luân hồi chẳng hạn thì kỳ thật đã khiêu chiến với điều Tiêu chưởng môn tin tưởng nhất. Tiêu chưởng môn vì thế mà coi Mục điện giám là nguy hiểm tiềm tàng của Thục Sơn cũng chưa biết chừng.”
“Nên vì thế mà ông ta giết Mục điện giám?” Trương Úy tỏ vẻ không tin được, tuy gã là người trung thành với niềm tin nhưng bảo vì niềm tin của mình mà giết người khác thì gã không dám tưởng tượng.
Bạch Chỉ Vi nhíu mày, gật đầu đồng ý: “Rất có thể, hơn nữa trước khi tỷ võ có người lấy thủ dụ của Mục điện giám cho Lý Liệt xem trước, thiết nghĩ nếu Tiêu chưởng môn đọc được thủ dụ dó thì sao? Trên đó ghi rằng phải đề phòng tân nhiệm chưởng môn, còn Tiêu chưởng môn là người thắng sau cùng đó.”
Đường Mật đã quên mất tờ thủ dụ, Bạch Chỉ Vi nhắc lại, nó thấy khá hợp lý, gật đầu khen ngợi.
Mộ Dung Phỉ lại lắc đầu: “Nhưng bảo chưởng môn là người Ma cung thì không ổn.”
Đường Mật gật đầu: “Đúng, nếu xác định được Tiêu chưởng môn tham dự vào việc giết Mục điện giám thì kẻ chủ mưu sau lưng có thể gồm hai người. Họ hợp mưu hay chỉ lợi dụng lẫn nhau, hoặc còn phương thức câu kết nào khác thì phải điều tra đã.” Nó hít sâu một hơi: “Vậy chúng ta có đến mộ địa nữa không, bị bắt thì không ở lại Thục Sơn được nữa đâu.”
“Đi chứ, còn hỏi làm gì.”