Ngọc Diện biến sắc, Nhạc Oánh cũng biến sắc. “Được, dù gì ta cũng không còn sống lâu nữa, hôm nay sẽ cho hai muội muội biết việc đó. Hoàn Lan, ra cửa canh gác giúp ta.” Ngọc Diện nói đoạn, Hoàn Lan lui ra cửa, nàng ta biết đại hạn đã tới, cố nén hận ý trong lòng xuống, nói với khẩu khí bình tĩnh: “Trên mặt ta đầy vết thương hình củ ấu do chu kế tạo thành, những vằn vện màu xanh hiện thời là tác phẩm của lão Mạc để che đi những vết thương đó.”
Nhạc Oánh và Đường Mật tuy ngoài mặt không thể hiện nhưng trong lòng đều chấn kinh. Chu kế là nguyên liệu chủ yếu chế tạo thủ cung sa, xử nữ bị chu kế rạch phải thì vết thương lành ngay, còn không phải xử nữ thì vĩnh viễn để lại dấu vết. Hai người đều biết Ngọc Diện sinh ra ở Thục Sơn, chỉ hứng thú với võ học, chưa từng biết gì về chuyện nam nữ, hơn hai mươi năm trước rời Thục Sơn cũng chưa từng nghe nói có qua lại với nam tử nào, vì sao bị chu kế để lại vết thương.
Ngọc Diện biết hai người đã hiểu ý, không cần giải thích tiếp, liền nói: “Lúc đó ta tuy không còn nhỏ, cả Nhạc Oánh muội muội cũng đã gả cho người ta, nhưng ta chưa từng động lòng với nam tử nào, chỉ một lòng muốn thành tựu về võ học, chưa đầy ba mươi đã trở thành trưởng sứ của Khí tông, cực kỳ hiếm thấy trong số các nữ tử Thục Sơn. Tiếc rằng ta chưa từng trải sóng gió trên giang hồ, không hiểu nhân thế hung hiểm, võ công đến đâu cũng không địch nổi ác nhân. Một hôm ta luyện võ buổi đêm, gặp một người bịt mặt tập kích, người đó cũng luyện được một thân công phu Thục Sơn, tương đương với ta. Ban đầu ta cho rằng hắn có ý xấu, nhưng qua mười chiêu thì biết người bịt mặt không hạ sát chiêu, cơ hồ muốn luyện võ cùng ta, ta nổi tính trẻ con, cho rằng đồng môn muốn cùng luyện nhưng sợ thua nữ tử nên mới bịt mặt mà tới. Hôm đó giao đấu thật sự hứng trí, võ công của hắn kém hơn một chút, sau cùng thất bại đi mất. Tối hôm sau, hắn lại đến luyện cùng ta, liên tiếp ba ngày đều thất bại. Đến ngày thứ tư, bộ pháp của y chợt biến đổi, chính là Ma La vũ. Ta chưa từng thấy Ma La vũ, càng đấu hưng phấn hơn, còn hắn lợi dụng bộ pháp phiếu hốt đông tránh tây né, dần dụ ta đến một sơn cốc mọc đầy loại hoa nhỏ màu trắng thơm nức, ta ngửi vào liền mất đi ý thức cùng tri giác. Lúc tỉnh lại thì thấy y phục nhàu nát, mặt tựa hồ bị gai hoa cào thành những vết nhỏ, biết rằng đã xảy ra chuyện. Sau đó lâu ngày mà vết thương không lành thì hiểu hẳn, ta là nữ tử, sao có thể mang vết thương chu kế này mà gặp người khác, đành lén gặp hảo hữu Mạc Thất Thương nhờ nghĩ cách. Tuy bất đắc dĩ phải dùng màu xanh che đi nhưng ta vẫn thấy không còn mặt mũi gặp ai, càng sợ bị hỏi đến, làm mất mặt cha là tông chủ, vì thế mới rời Thục Sơn.”
Đường Mật không ngờ nàng ta từng trải qua việc đau lòng như vậy, nổi giận: “Ngọc Diện tỷ tỷ cho rằng Tiêu chưởng môn là kẻ vô sỉ sử dụng Ma La vũ đó?”
Không đợi Ngọc Diện đáp, Nhạc Oánh thần sắc hoảng loạn biện giải: “Không phải, Vô Cực luôn coi tỷ tỷ là bằng hữu tốt, không thể gây ra việc như thế.”
Lửa giận dâng lên trong lòng Ngọc Diện, phất tay gạt song chưởng Nhạc Oánh đãng giúp mình vận công, mắng: “Giờ muội còn nói giúp hắn, nếu muội cho rằng hắn không phải loại người đó thì sao sau khi tỷ võ tranh chưởng môn còn chia tay hắn? Hôm nay vì sao Tạ Thượng lại muốn tỷ võ?”
Nhạc Oánh biết Ngọc Diện dựa vào nội lực của mình mới kéo dài được sinh mệnh, vội đưa hai tay ra, không ngờ Ngọc Diện nổi tính trẻ con, hất tay Nhạc Oánh ra, thân hình loạng choạng ngã vào lòng Đường Mật, nói với Nhạc Oánh bằng giọng đầy phẫn hận: “Nhạc Oánh, vì thân phận nên ngươi đừng nói gì nữa, ngươi gọi ta là tỷ tỷ ngần ấy năm, ta chỉ muốn ngươi lần cuối cùng nhìn rõ xem mình đã lấy người thế nào…” Đoạn chụp lấy tay Đường Mật, thở hồng hộc nói: “Đường Mật, tuy muội và ta quen nhau chưa lâu, muội cũng không nợ gì ta, nhưng nể tình chữa thương, ta xin muội thay ta báo thù sau khi ta chết.”
Đường Mật tuy biết sức mình khiêu chiến Tiêu Vô Cực khác nào kiến càng lay cổ thụ, nhưng nghĩ đến Ngọc Diện cả đời đau khổ, liền đáp: “Được, muội đồng ý.”
Nhạc Oánh thấy ánh mắt Ngọc Diện đã loạn, vội giải thích: “Vô Cực chỉ cố chấp giữ ngôi chưởng môn, nhưng vảo vì thế mà thương tổn đến bằng hữu từ bé thì không phải, tỷ tỷ, tỷ tỷ, nghe muội nói đã.”
Đường Mật nhì Ngọc Diện trong lòng, con ngươi nàng ta trợn hẳn lên, ám đạm vô quang, đã đi rồi. Nó vẫn nghe Nhạc Oánh biện hộ cho Tiêu Vô Cực thì đột nhiên nổi giận, đẩy đôi tay định đỡ lấy Ngọc Diện ra, mắng: “Hay cho kẻ không thương tổn đến bằng hữu từ thủa bé, tỷ có biết Mục điện giám cũng do hắn giết không?”
Nhạc Oánh trợn tròn mắt, không dám tin vào tai mình, định hỏi tiếp thì cửa phòng bật mở, Hoàn Lan bị ném vào, rơi phịch xuống đất, một người lên tiếng: “Không sai, Mục Hiển do ta giết thì sao, y đi vào con đường tà ma, phạm đến Đọa Thiên đại nhân, còn định lan truyền lời đồn đại, đoạt ngôi chưởng môn của ta, hủy đi cơ nghiệm trăm năm của Thục Sơn. Bại loại như thế không đáng giết hả?”
Nhạc Oánh thấy người đến là phu quân Tiêu Vô Cực, nghe lão nói vậy liền chất vấn: “Vậy Ngọc Diện tỷ tỷ là do ngươi hại?”
Tiêu Vô Cực đáp: “Ta không biết việc của Ngọc Diện, nhưng ta thề với trời chưa từng hại Ngọc Diện.”
Đường Mật hừ lạnh: “Kế sách độc ác tá đao sát nhân ngươi cũng nghĩ ra được, thề thốt làm gì.”
Tiêu Vô Cực nắm Thục Sơn hơn mười năm, chưa từng có ai dám nói với lão như vậy, cộng thêm đang buồn bực vì bại dưới tay Tạ Thượng, sát ý đột nhiên dấy lên, giờ kiếm tấn công Đường Mật. Cũng may Hoàn Lan phòng sẵn, vung kiếm gạt đi, Nhạc Oánh vội cầm kiếm lên đứng trước mặt Đường Mật, thần sắc lẫm liệt: “Tiêu Vô Cực, dù hôm nay hay về sau, chỉ cần Nhạc Oánh ta còn sống thì ngươi không được động đến hài tử này.”
Tiêu Vô Cực nhìn dáng vẻ quyết tuyệt của ái thế, cơn giận trong lòng bình tĩnh lại, ngửa mặt thở dài, khẩu khí đượm buồn thương: “Năm nay y lại tặng muội cỏ Đồng quản hả?”
“Ta vẫn không cần.”
“Vậy, lời ta nói muội có đồng ý tin không?”
“Đồng ý, chỉ cần ngươi nói thật.” Nhạc Oánh cố dịu giọng.
“Ta không biết hài tử này và Ngọc Diện nói gì với muội nhưng ta thật sự chưa từng hại đến Ngọc Diện. Còn Mục Hiển thì đáng tội, ta tá đao sát nhân bất quá vì e ngại võ công của y lợi hại, thứ nữa là không muốn người ta nghĩ Thục Sơn chúng ta tàn sát lẫn nhau hoặc lời đồn rằng điện giám Ngự Kiếm đường tu luyện tà thuật truyền ra. Mục Hiển vong mạng vì đấu với hồn thú của Ma vương, coi như cũng oanh oanh liệt liệt.”
Đường Mật thấy lão lại bảo Mục Hiển tu luyện tà thuật thì càng tức giận: “Chả trách Ngọc Diện bảo ngươi cổ hủ, Mục điện giám điều tra toàn là sự thật, ngươi không thừa nhận, tự lừa mình đã đành, lại còn chỉ trích điện giám đi vào tà lộ. Đọa Thiên đại nhân cũng không xác định được mình có chuyển thế được không, ngài không kỵ húy dùng tà thuật thì sao các ngươi lại ngại nhắc tới? Giờ các ngươi luôn miệng nói là ý nguyện của Đọa Thiên đại nhân, thật ra có mấy phần là ý nguyện thật sự của đại nhân, bao nhiêu phần là do các ngươi tự bịa ra?”
Tiêu Vô Cực không ngờ nó biết nhiều như thế, nhất thời cân nhắc nên xử trí kiếm đồng phiền nhiễu này thế nào, nhưng thấy ánh mắt nửa tin nửa ngờ của thê tử, lại nhớ ra mình không còn là chưởng môn Thục Sơn, chợt thấy tính toán nhiều cũng thế mà thôi, lòng lão ảm đạm hẳn, sát ý tiêu tan, cụp mắt xuống tra kiếm vào bao: “Mỗi người đều mang trong lòng một thứ không thể rũ bỏ, thứ ta tin tưởng từ bé sao có thể để người khác phá hủy, bất quá ta chỉ dùng cách mình cho là chính xác để bảo vệ Thục Sơn.” Lão nhìn Nhạc Oánh thật sâu: “Nhưng ta thừa nhận giết Mục Hiển vì y nhắm đến ghế chưởng môn của ta, có thủ dụ của y làm chứng. Oánh nhi, vì ngôi chưởng môn mà ta mất đi quá nhiều, sao có thể để y đạt thành? Còn về Ngọc Diện, ta chưa từng làm gì có lỗi, sao hôm nay Ngọc Diện lại muốn dồn ta vào tử địa? Muội không tin cũng được, ta không còn là chưởng môn Thục Sơn, muốn đến trả thù thì chỉ cần thấy đủ bản lĩnh cứ việc tới.” Đoạn lão khẽ thở dài bước đi.
Đường Mật ngẩn người, nhận ra người xấu mình muốn bắt đã đi mất, nhất thời không biết nên làm gì. Nhạc Oánh khẽ kéo tay áo nó, dịu giọng: “Hài tử, có muốn nghe ta nói không? E rằng hài tử hiểu lầm việc của Ngọc Diện.”
Đường Mật cảm giác tư duy hỗn loạn, gật đầu theo phản ứng, Nhạc Oánh thương cảm vuốt tóc nó: “Lúc ta quen Vô Cực cũng chỉ bằng tuổi muội, y là đại ca ca nghiêm túc của Kiếm tông còn là búp bê nhỏ của Ngự Kiếm đường. Vì ta thích y nên sau đó lên Kiếm tông bái làm môn hạ của Ngân Hồ, đến khi ta và Vô Cực thành hôn mà vẫn không biết sư phụ thích mình. Việc đó không cần nói nhiều nữa, chỉ nói về Vô Cực thôi.” Nàng ta nói đến đó, nhìn lên hư không như muốn nhìn thấy ảo ảnh từ xa xưa: “Mười hai năm trước, Vô Cực đợi đến kỳ tỷ võ chưởng môn đầu tiên kể từ khi đảm nhiệm chức tông chủ Kiếm tông, lúc đó võ công của y gần như không có đối thủ tại Thục Sơn, người duy nhất thắng được chính là chưởng môn đương thời, sư phụ Ngân Hồ của ta. Vô Cực rất lo, với võ công của sư phụ, nếu người muốn tỷ đấu thì chức chưởng môn nắm chắc trong tay thêm mười năm nữa, Vô Cực tuy là đệ tử nhưng có nhiều khác biệt với sư phụ. Muội cũng biết tính Ngân Hồ, quản lý Thục Sơn không nghiêm, thưởng phạt theo hứng nên giang hồ e ngại, chỉ nhờ uy tín trăm năm của Thục Sơn mới duy trì được cục diện. Nói chung Thục Sơn dưới quyền Ngân Hồ khác xa Thục Sơn trong tưởng tượng của Vô Cực, y vẫn luôn mong muốn chỉnh đốn lại theo ý mình, nên trước khi tỷ võ đã giả bút tích của ta viết thư cho sư phụ, nói ta thích sư phụ đã lâu, bất quá e ngại thân phận nên mới ẩn nhẫn trong lòng, chỉ cần sư phụ đồng ý bỏ ngôi chưởng môn thì ta sẽ cùng người cao bay xa chạy, ẩn cư sơn lâm, ước hẹn cả thời gian và địa điểm ra đi. Muội cũng biết Ngân Hồ thật thà, chức chưởng môn còn lâu mới sánh được với tình ý nhi nữ, vì thế sư phụ đã không tham gia tỷ võ.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó sư phụ thấy quá ngày mà ta chưa đến liền nổi giận chất vấn, ta vốn bị che mắt, nhưng nghe qua là biết ngay ai giở trò, bởi ta vẫn biết chỉ mình và Vô Cực hiểu được chuyện sư phụ thích ta, nhưng khi ấy theo bản năng, ta muốn bảo vệ Vô Cực, liền bảo Ngân Hồ là ta cố ý gạt sư phụ để phu quân lên làm chưởng môn, có bản lĩnh thì cứ nói ra mưu kế của ta với chúng nhân. Sư phụ nghe xong thương cảm vô cùng, từ đó đi xa.” Sắc mặt Nhạc Oánh xạm đi, mắt ầng ậng nước.
“Tỷ đúng là ngốc, Tiêu, à, chưởng môn dám làm mọi thứ, kể cả tình ý của tỷ cũng đem ra tính toán.” Đường Mật vốn định mắng nàng ta nhưng ngữ điệu nhu hòa, không đành lòng nặng lời với nữ tử như thế.
Nhạc Oánh cười tham: “Sao ta lại không biết nên sau hôm đó ta đến Bích Ngọc phong tĩnh tu, hơn mười năm liền không gặp Vô Cực một lần.”
“Lần đó Ngân Hồ sao lại biết do chưởng môn giở trò?”
“Chân tướng việc này vốn chỉ có ta và Vô Cực biết, còn vì sao Ngân Hồn biết thì ta không rõ. Ta và Ngân Hồ hơn mười năm không gặp, không ngờ hai năm trước y đến Thục Sơn bái tế, nghe nói phu nhân chưởng môn tĩnh tu từ sau lần tỷ võ mười năm trước, liền cho rằng có liên quan đến y, mang cỏ Đồng quản đến hỏi ta năm xưa có ẩn tình chăng, nhưng ta khéo léo cự tuyệt.”
“Ừ, năm đó bọn muội có gặp Ngân Hồ.”
“Không ngờ năm đó sư phụ đột nhiên mang cỏ Đồng quản đến nói là biết mọi chuyện, sẽ đoạt lại thứ đã mất vào lễ thọ, ta sợ xảy ra chuyện nên mới ẩn thân trong đám đông, chỉ không ngờ ra mặt lại là Ngọc Diện tỷ tỷ.” Nhạc Oánh không nén được nữa, trào lệ nắm tay Đường Mật: “Việc Mục Hiển thì ta không biết ai đúng ai sai nhưng biết là nếu Vô Cực thật sự cho rằng Mục Hiển uy hiếp đến Thục Sơn thì y sẽ hạ thủ. Còn về việc giữa chúng ta và Ngân Hồ thì ta đã cho muội biết rồi, giờ chức chưởng môn quay lại với Ngân Hồ, coi như kết thúc mọi sự. Có ai hiểu chồng hơn vợ, ta tin Ngọc Diện tỷ tỷ không phải do Vô Cực hại.”
Đường Mật vốn cho rằng một người si tình đến ngu xuẩn thì đáng mắng chửi nhưng lúc đó dáng vẻ khổ não của Nhạc Oánh khiến nó không mắng nổi, chỉ gạt tay nàng ta ra: “Uy hiếp đến Thục Sơn hay đến hắn thì e rằng chỉ trong lòng y biết rõ.” Đoạn nó đứng dậy, đỡ lấy thi thể Ngọc Diện: “Hoàn Lan giúp ta, mau để Ngọc Diện tỷ tỷ nhập thổ vi an.”
“Hài tử, vẫn muốn trả thù Tiêu Vô Cực hả?” Nhạc Oánh hỏi gặng.
“Ân oán phải kết thúc, cừu nhân cũng không chỉ có một người.”
Đêm đó, cả Ngự Kiếm đường đều xáo động, qua hơn trăm năm lần đầu tiên Thục Sơn mới xuất hiện cục diện một người nắm cả Ngự Kiếm đường và tam tông, ngay cả những kiếm đồng nhỏ tuổi cũng thấy bầu không khí dị thường, xúm nhau lại khe khẽ bàn luận, đoán xem sẽ xảy ra biến hóa gì trọng đại.
Gió đêm thổi qua rừng núi, trở nên dịu hẳn, cây cối khẽ lay động, xào xạc xạc xào.
Ba mươi tháng Tư, đêm không trăng, trời tối như mặc, năm thiếu niên ở trong rừng vây quanh đống lửa, ánh mắt đượm nét kinh ngạc nhìn ngọn lửa bập bùng, sáng rỡ.
“Ngươi cho rằng ai hại Ngọc Diện tỷ tỷ?” Bạch Chỉ Vi hỏi.
“Ta cũng không biết, bất quá không cần nghĩ vội. Trước đây ta chỉ suy đoán nhưng giờ có thể khẳng định kẻ chủ mưu không chỉ mình Tiêu chưởng môn.” Đường Mật đáp chắc nịch.
“Với tâm tính của Tiêu chưởng môn tuyệt không liên thủ với người Ma cung, nhưng dấu vết về Ma cung nhiều quá, nếu không ngoài dự đoán thì gian tế Ma cung ẩn trong Thục Sơn lợi dụng Tiêu chưởng môn và Mục điện giám có hiềm khích để thúc đẩy tất cả.” Mộ Dung Phỉ tán đồng.
Không để Đường Mật nói gì, Bạch Chỉ Vi đã tiếp lời: “Ta cũng thấy vậy, nếu lúc ở địa cung Cố tông chủ thấy Đường Mật nhưng lại giấu hộ thì tông chủ đáng nghi nhất. Đường Mật, có đúng không?” Đường Mật đã nghĩ về việc này nhiều lần nhưng bị người khác nói ra thật không dễ chịu, nó tránh ánh mắt thiếu nữ sáng đến bức lòng người, đáp: “Đúng.”
Manh mối đến đó là đứt, Tiêu Vô Cực đi mất tích, Mộ Dung Phỉ được phân công giám thị Cố Thanh Thành cũng không phát hiện được gì, Đường Mật mong ngóng nhưng Dị bảo quán không tin không tức, cả nhóm chỉ còn cách nén lòng lưu ý tình thế của Thục Sơn, đợi ngày vào hồ Ảo hải.
Đường Mật và Bạch Chỉ Vi ban đêm vẫn vào tĩnh thất trong địa cung đọc sách vở Vương Lẫm để lại, chú ý cả những câu ông ta chú ở lề sách. Có lúc nảy sinh cả cảm xúc với những cảm nghĩ của Mục Hiển ghi lại lúc đọc sách, lâu dần tuy không chân chính học tập những pháp thuật đó nhưng hiểu tà thuật hơn nhiều. Quan trọng nhất là Đường Mật hiểu thấu triệt hơn Vương Lẫm nghĩ gì trong những ngày tháng sau cùng, có lúc bất ngờ nhìn trăng sáng trên trời, nó lại nảy sinh dự cảm kỳ dị, như thể đến rằm tháng Tám vào hồ Ảo hải, nhìn tận mắt những bố trí sau cùng của Vương Lẫm là sẽ giải khai được mọi câu đố.
Mùa hè thấm thoát tràn tới rồi lặng lẽ đi dần sang thu. Có lúc Đường Mật cảm giác quá bình tĩnh, rõ ràng là Thục Sơn đã thay đổi mà sao yên tĩnh hơn bất kỳ lúc nào? Nhưng dù thế nào, ngày mười lăm tháng Tám cũng tới rồi…
Ngày hạ rất dài, lúc các thiếu niên cầm đĩa đèn từ mộ Vương Lẫm ra đến ảo hài, trời vẫn chưa tối hẳn, rừng núi dưới màn đêm đang buông còn vương lại một chút ánh vàng. Yêu thảo màu lam vươn mình trong gió, thì thầm cười nói. Sương mù chợt dâng lên, màn sương trắng đục thấm vào cây cỏ, thoáng sau đã bị gió thổi tan. Ngẩng mắt nhìn, hư không tối tăm phía trước sững sừng khu rừng đen thẫm. Các thiếu niên đi vào Ảo hải, Mộ Dung Phỉ nhìn cổ thụ và dây leo vạn năm bất biến, chợt hồi tưởng lại hai năm trước cả nhóm cùng vào Ảo hải, buột miệng: “Giống hệt lúc chúng ta vào bắt yêu xà, không có gì thay đổi cả.”
“Không phải, con người thay đổi rồi.” Đường Mật nói tiếp.
“Không phải mấy chúng ta ư?” Trương Úy không hiểu lắm.
“Ngốc, ngươi không thấy ta cao lên rồi hả?” Đường Mật giả bộ giận.
“Ừ, đầu to không thay đổi, vẫn là khúc gỗ.” Bạch Chỉ Vi tỏ ra nghiêm túc.
Trong lúc nói cười, mấy đứa đi qua một tảng đá, Đường Mật chợt dừng chân đi quanh quan sát. Hoàn Lan nhìn tảng đá thật kỹ, tựa hồ nghĩ ra việc gì: “Khối đá chúng ta đã thấy vào năm bắt yêu xà, để bày trận, ta nhớ ngoài xa còn một tảng nữa, nhảy lên là nhìn thấy.”
Đường Mật gật đầu: “Đúng, là tảng này, ở vị trí Kim.” Đoạn nó nhảy lên nhìn ra xa, quả nhiên thấy một tảng khác, không giải thích gì mà tiếp tục lắc mình như xích điểu lướt sang tảng đá khác. Cả nhóm thấy nó đứng trên tảng đá quan sát một lúc rồi mới thi triển khinh công quay về chỗ cũ, nói với bốn đồng bạn: “Từ tảng đá này có thể thấy tảng khác, tổng cộng gồm bốn tảng, cộng thêm với hồ Ảo hải là thành Ngũ hành trận. Hồ Ảo hải ở vị trí Thủy, thuật Phách thủy tất phải tại hồ Ảo hải thi triển về vị trí Kim, Thổ.”
Mộ Dung Phỉ nhíu mày: “Đường Mật, thuật Phách thủy đó thật ra là gì?”
“Thuật này không có tác dụng gì, chỉ để chẻ nước hồ Ảo hải, là pháp thuật do Đọa Thiên đại nhân sắp đặt sẵn.” Đường Mật giải thích: “Dạo này ta và Chỉ Vi vẫn nghiên cứu di vật của Đọa Thiên đại nhân, nếu bọn ta đoán không sai thì nước hồ là kim thủy do máu và thủy ngân hòa trộn, bề ngoài trông giống nước nhưng thật ra cứng như đá.”
Nước hồ tuy có vẻ tà môn nhưng mấy đứa đều biết trong khoảnh khắc sau cùng Vương Lẫm muốn qua tà thuật giải quyết vấn đề nên không thấy kinh ngạc. Đến bên hồ, Đường Mật thuận tay lấu một cành cây khô chọc xuống nước, xuống được hai thước liền chững lại, nó nhìn chúng nhân: “Bên trên là nước, phía dưới là kim thủy.”
“Ngũ hành trận có rất nhiều tác dụng, Ngũ hành trận này có tác dụng gì?” Mộ Dung Phỉ hỏi.
“Phải xem dưới mặt nước trấn áp thứ gì đã, mấy viên đá này tựa hồ đều là vẫn thạch có thể phát ra năng lượng kinh nhân, hơn nữa vạn năm không đổi nên ta đoán rằng trận pháp này để trấn áp sức mạnh nào đó hoặc phát ra sức mạnh nào đó.” Đường Mật cần đĩa đèn lên: “Đây là quang dẫn cho thuật Phách thủy.” Nó móc đồ đánh lửa ra châm vào nọn nến trong đĩa đèn, chợt kêu lên kinh ngạc: “Không còn nhiều nến nữa.”
Cả nhóm liếc nhìn, không phải rồi, ngọn nến đỏ trong đèn cao không đấy ngón tay cái, tất cả vẫn nhớ hiếm khi đốt ngọn nến lên, lúc xưa mỗi đem học Ma La vũ cũng không dùng mất bao nhiêu nến.
Cả nhóm không chú ý còn lại bao nhiêu nến nên đành đoán mò. Bạch Chỉ Vi nói: “Có phải người lấy được ngọn đèn này ngốc, đốt lên nhiều lần mới học được?”
“Có thể có người đã động đến đĩa đèn rồi. Nhóm Tiêu chưởng môn lần đó muốn Ngân Hồ để ngọn đèn lại, chứng tỏ họ đều biết cách ra vào lăng mộ chứ không chỉ riêng Ngân Hồ biết. Có lẽ như thế để dễ dàng lấy đèn.” Hoàn Lan cũng như bọn Đường Mật, chưa quen gọi Tạ Thượng là chưởng môn.
Đường Mật lại nhìn ngọn nến đỏ đến phát ngốc, chợt lắc đầu: “Không nghĩ nữa, làm việc quan trọng đã.” Đoạn nó đốt đèn, giơ lên bằng tay trái, tay phải vẽ phù chú lên không, thầm niệm khẩu quyết, ngưng tụ tâm lực, thi triển thuật Phách thủy.
Nước hồ phẳng lặng chợt tách làm đôi, dâng thành hai bức tường cao chừng mười trượng, lộ ra một lối đi hẹp hướng xuống dưới. Đường Mật giơ đèn đi xuống, ánh đèn chiếu lên bức tường nước trong suốt ánh lên quầng sáng kim thuộc màu đỏ pha bạc, bóng người múa trong ánh đèn, đầu nghiêng lên phiến kim thuộc lạnh lẽo. Yêu dị như quỷ mị loạn vũ.
Pháp thuật này chỉ đủ cho một người thông qua, những người khác đành đợi trên bờ. Nước hồ khép lại sau lưng nó, thoáng sau đã yên tĩnh như ngọc. Trương Úy lo lắng, tuốt kiếm đâm xuống nước, quả nhiên chỉ được hai thước là bị ngăn lại, tựa hồ gặp phải vật gì đó cứng rắn, thân kiếm rung lên, phát ra tiếng ong ong. “Thật ra Đường Mật lại đi vào một nơi cứng như đá,” thiếu niên kinh thán.
Bản thân nó cũng thấy kỳ dị, bức tường nước phía sau khép lại, che kín thinh không đầy sao, nhưng ánh trăng vẫn xuyên qua nước hồ trong vắt rọi xuống. Có lúc nó cảm giác bản thân đang đi trong thể rắn, thân thể như làn khói hư vô xuyên qua được bất kỳ thực thể nào, thoáng sau lại thấy xung quanh là hư vô, chính nó là thực thể cứng như kim cương.
Đi trong cảm giác thay đổi như thế quên cả thời gian, sau cùng nó đến đáy hồ, dựa vào ánh đèn thấy năm con yêu thú đứng trước mặt. Chúng bất động, nhưng giữ nguyên tư thế như vẫn sống. Đường Mật không nhận biết toàn bộ, chỉ biết một là con lợi xỉ mã, còn con rắn mang mai rùa là huyền vũ.
Giữa năm con yêu thú kê một cái giường ngọc màu mỡ đông, trên giường có một thi thể nữ tử mặc chiến bào nhưng đã cởi khôi giáp. Vì bị kim thủy cách tuyệt với ngoại giới, thi thể nữ tử không hề rữa nát, phảng phất chỉ đang ngủ say, gương mặt nhợt nhạt đượm thêm nét ưu thương băng lạnh, mang theo khí lạnh thấm vào lòng người khiến Đường Mật run lên. Nó hít sâu một hơi, đến gần hai bước nhìn gương mặt nữ tử đang ngủ rồi lại nhìn nữ tử đang múa trong đèn, lẩm bẩm: “Sau cùng chúng ta lại gặp nhau, Ma vương.”
Thi thể Hoa Tuyền xuất hiện ở đây cũng không ngoài dự liệu, nó quan sát thật kỳ, phát giác tay trái phất phơ, biết rằng nhất định khi đó Hoa Tuyền tự đoạn tay để máu văng lên trời. Vết cắt từ vai trái xuống sườn, nó kinh hoảng, vết thương trên vai trái nó loáng thoáng đau nhói lên.
Vết thương cơ hồ cùng một vị trí, nó nghĩ, ta là ai?
Nó nhìn thi thể Hoa Tuyền một lúc mới tỉnh lại, ngoái đầu quan sát vị trí năm yêu thú, một con là lợi xỉ mã thuộc hỏa, một là huyền vũ thuộc thổ, ba yêu thú còn lại nó không biết, lần lượt thuộc kim, mộc, thủy, vị trí năm yêu thú này cấu thành Ngũ hành trận, thi thể Hoa Tuyền ở trung tâm trận. Ngũ hành trận khả dĩ biến hóa ra nhiều loại, nhất thời nó không hiểu ý nghĩa của tòa trận. Lần mò một hồi, nó nhận ra vị trí Ngũ hành trận này và phương vị Ngũ hành trận do đá tạo thành dưới đất khác nhau, phương vị kim mộc thủy hỏa thổ khi nghịch chuyển sẽ là vị trí Yêu thú Ngũ hành trận.
Phát hiện này khiến nó máy động, gom mọi nhân tố tổ thành trận hình lại, so sánh với sách vở đọc được ở địa cung Thục Sơn, đột nhiên kêu lên tỉnh ngộ: “A, hóa ra là ý đồ này.”
Sau cùng cũng hiểu, đối diện với sự thật, bi ai khôn tả dấy lên từ đáy lòng nó. Bọn Bạch Chỉ Vi đợi cạnh hồ đến chán ngắt, nhưng dù sao cũng chỉ biết nhìn mặt hồ ngưng đọng màu xanh tĩnh lặng.
Cô vào rừng tản bộ, được vài bước thấy một khối vẫn thạch tạo thành thạch trận. Lúc đến đây cô chưa quan sát kỹ, giờ cũng muốn coi lại xem sao, hóa ra tảng đá tuy đầy rêu nhưng một vạt rêu lớn đen xì, tựa hồ bị đốt cháy, có cụm rêu bị cháy đã mọc lên rêu mới, xanh mướt như những nơi khác. Cô lấy làm lạ, định xem những tảng đá bày trận khác có thế không, liền rảo bước sang một tảng đá khác.
Đi được nửa đường, chân phải Bạch Chỉ Vi đạp hụt, suýt nữa ngã bổ nhào, cũng may cô phản ứng nhanh nhẹn, xoay người nhảy lên mấy thước đáp xuống bãi cỏ, ngoái nhìn chỗ vừa trượt chân. Ở đó có một lỗ nhỏ vừa bàn chân, rất giống hang chuột, ở trong rừng thì những cái hang thế này cực kỳ nguy hiểm, đều ẩn trong cây cỏ, bất cẩn giẫm phải là gãy chân ngay. Bạch Chỉ Vi thầm lấy làm may mắn, định bước đi thì không hiểu sao lại nảy ra ý định đến xem qua cái hang. Cửa hàng tròn xoe, vách trơn nhẵn, còn dấu bị thiêu cháy đen xì, cô bật lửa lên soi, quả nhiên hang chỉ sâu nửa thước, không thể là nhà của động vật nào được. Cô tuy thấy kỳ quái, định đi xem tảng đá khác nhưng sợ sau này không dễ tìm ra cái hang, liền tìm cành khô cắm cạnh cửa hang, xé vạt áo đỏ ra buộc lên làm tiêu ký.
Lúc đến tảng đá thứ hai, cô cùng phát hiện dấu rêu bị đốt cháy, liền khẳng định có nguyên nhân gì đó, nhảy lên tảng đá nhìn về tảng đá đầu tiên, hóa ra cành cây buộc vải đỏ nằm giữa đường thẳng nối liền hai tảng đá. Tuy cô không hiểu điều đó có ý nghĩa gì nhưng lòng hơi rúng động, dù thế nào thì động huyệt nằm giữa đường nối hai vị trí trong Ngũ hành trận nhất định có gì đó cổ quái. Cô vội phi thân xuống, tìm đồng bạn thảo luận.
Trương Úy, Mộ Dung Phỉ, Hoàn Lan theo lời cô tìm vẫn thạch và địa động nhỏ. Trương Úy khá quen thuộc với mọi thứ trong rừng, liếc nhìn đám rêu mới mọc ra trên tảng đá lớn: “Đại khái mấy năm trước tảng đá này bị đốt cháy.”
“Tựa hồ là địa động và vẫn thạch gặp lửa, cây cối quanh đây vẫn còn nguyên. Lửa thông thường không thể không lan ra chung quanh, đây nhất định là vết cháy do pháp thuật gây ra.” Mộ Dung Phỉ kiểm tra cây cối chung quanh, khẳng định.
Mấy đứa liền tìm xem mấy phương vị khác của Ngũ hành trận, phát hiện giữa đường nối liền mỗi hai phương vị đều có một lỗ nhỏ cháy xém, năm lỗ nhỏ này có cùng độ sâu, vách cứng dị thường. Không hiểu lửa cỡ nào mới đốt thành thế này được.
Mộ Dung Phỉ cũng thấy bất thường, nhìn khắp Ngũ hành trận tổ thành từ cái hồ và vẫn thạch. Đứng ở mặt đất không thể nhìn thấy toàn bộ bởi diện tích tòa trận quá lớn. Dù thế y vẫn đưa ra giả thiết bất ngờ với ba đồng bạn: “Trận pháp chi thuật cực kỳ tinh diệu, sở học của ta hiện tại không thể nhìn thấu tác dụng của mấy động huyệt. Bất quá nếu vị trí động huyệt từng được đặt pháp khí hoặc bảo vật thì có thể hoàn toàn cải biến tác dụng ban đầu của trận thế.”
“Đường Mật có gặp nguy hiểm không?” Hoàn Lan hỏi.
“Tại hạ đoán là không sao, vì hiện lại chỉ còn lại vết cháy, không quấy nhiều đến Ngũ hành trận có sẵn.” Mộ Dung Phỉ đáp, tỏ vẻ hơi do dự: “Nhưng chỉ là đoán mà thôi.”
Lúc đó nước hồ đột nhiên dao động, cả ba cùng đến bờ hồ, nước tách ra làm đôi còn Đường Mật thong thả bước ra, nó đứng trên bờ niệm khẩu quyết, nước hồ sôi trào dâng sóng cao cả chúc trước, dần dần trở nên đỏ rực như máu. Cả ba thấy khung cảnh yêu dị như vậy, chả trách Đường Mật từng cho rằng Mục điện giám thi triền tà thuật gì đó.
Bạch Chỉ Vi thấy nó bình an, định hỏi xem có phát hiện gì thì nhận ra thần sắc nó buồn bữ, vội hỏi: “Thế nào Đường Mật, dưới đó có gì?”
“Nơi này quả nhiên là Ngũ hành trận trấn trụ Hoa Tuyền, làm giảm mọi sức mạnh của nàng ta.” Đường Mật đáp.
Bạch Chỉ Vi cho rằng đáp án này không có gì đáng kinh ngạc, di thư của Đọa Thiên cũng nói nơi đây là phòng ngự chủ chốt, tác dụng trận đồ tất nhiên hợp lý, liền hỏi: “Chuyện gì khiến ngươi khó chịu như thế?”
Đường Mật giãn sắc mặt ra, thở dài: “Chỉ Vi còn nhớ Ngũ hành vãng phục huyết trận chúng ta đọc được trong sách không?”
“Nhớ, đấy là một loại biến hóa của Ngũ hành trận, người bày trận để thi thể người thân thiết với mình, như vợ, con cái, phụ mẫu vào trung tâm, sức mạnh của người được đặt vào sẽ bị tước đoạt cho người bày trận sử dụng.” Bạch Chỉ Vi đáp, tâm niệm liền lay động: “Ngươi nói đây là Ngũ hành vãng phục huyết trận?”
“Đúng, là Ngũ hành vãng phục huyết trận do năm yếu thú thuộc năm thuộc tính cường hóa, trung tâm trận là thi thể Hoa Tuyền.”
“A.” Bạch Chỉ Vi khẽ thở dài, lúc thấy trận pháp này cô còn thảo luận với Đường Mật rằng quả là tà thuật, sao lại có hạng người dùng thi thể thân nhân đặt vào trung tâm trận, hà huống thời bây giờ tin vào thuyết lục đạo luân hồi mà lại đối đãi với người thân như vậy tức là muốn người thân vĩnh viễn không được nhập thổ vi an, trọng nhập luân hồi.
“Không ngờ Đọa Thiên đại nhân có thể quyết tuyệt như vậy với Ma vương, tại hạ vẫn tưởng hai người có giao tình.” Mộ Dung Phỉ cảm thán.
“Nếu thật sự quyết tuyệt như vậy thì hay quá.” Đường Mật nói, “Luyện chế kim thủy khó lắm, đấy là thứ những người nghiên cứu tà thuật dùng để bảo tồn thân thể, họ cho rằng chỉ cần thi thể không tiêu vong, hồn phách sẽ có ngày quay lại, người chết cũng sẽ trùng sinh. Nếu Đọa Thiên đại chỉ bày Ngũ hành vãng phục huyết trận thì đâu cần dùng kim thủy bảo tồn thi thể Hoa Tuyền, cứ vùi xuống đất cũng được. Đại nhân làm vật là hy vọng có ngày nàng ta quay lại.”
“Chắc Đọa Thiên đại nhân lúc đó mâu thuẫn lắm.” Trương Úy xưa nay phản ứng chậm hơn người khác, nhưng không biết sao lúc đó như thể chạm đến linh hồn dằn vặt của Vương Lẫm.
Thần sắc Đường Mật xịu hẳn: “Đúng, lúc ta hiểu ra lòng cũng khó chịu lắm, cơ hồ hiểu được tâm cảnh người bày trận. Đối với Đọa Thiên đại nhân, luân hồi là việc không thể chứng minh, dùng kim thủy trấn trụ thi thể đợi ngày trùng sinh cũng vậy. Đại nhân dùng trận pháp khiến nàng ta không thể luân hồi chuyển thế, đoạt lấy sức mạnh của nàng ta nhưng cũng để lại một lối thoát; những điều này thì đại nhân cũng không thể xác định được kết quả. Tâm tình đó, ta nghĩ đến là đau lòng.”
Lúc đó, làn gió rít lên bi thương khe khẽ lướt qua mặt hồ, cỏ dại trên bờ xào xạc. Màn đêm tĩnh lặng cuối hạ ẩn chứa đôi phần ý thu man mác, các thiếu niên đứng trong đó, thoảng như cảm ngộ nỗi buồn của đời người, nhất thời không thốt thành lời.
“Nhưng khẳng định đoạt được mọi sức mạnh liên quan đến Ma vương.” Hoàn Lan nói: “Mọi yêu vật dưới trướng Ma vương, kể cả Thi vương, không gây loạn gì được trong hơn trăm năm cũng do trận pháp này. Hiện giờ Thi vương tái xuất hiện, nhất định là như Đọa Thiên đại nhân dự liệu, trận pháp của người chỉ duy trì được trăm năm, sau đó tác dụng lấy đi sức mạnh sẽ biến mất, yêu vật dần khôi phục lại, Thi vương là yêu vật mạnh nhất, nên xuất hiện đầu tiên. Cũng vì thế, kết giới phòng ngự của đại nhân bố trí tại Thục Sơn sẽ tan biến.”
Đường Mật gật đầu: “Hiện tại coi như biết vì sao người chết thì sức mạnh tan biến chỉ có hai người bọn họ là vẫn duy trì được. Chỉ là nếu bảo sức mạnh của ảo ảnh ở Xích Ngọc cung bắt nguồn từ vẫn thạch do Hoa Anh tìm thấy thì họ dùng cách gì khiến hồn thú không tiêu vong.”
“Mặc kệ việc đó, Đường Mật, để xem bọn ta phát hiện được gì nào.” Bạch Chỉ Vi nói đoạn, kéo nó đi vào tiểu địa động.
Đường Mật không giải thích được tiểu động cổ quái và vết cháy trên vẫn thạch, đưa tay sờ lên bốn bức tường cháy đen, mày nhíu chặt lại, một lúc sau hoang mang ngẩng lên, thấy Trương Úy liền máy động hỏi: “Đầu to, nghe nói mớ đá này bị thiêu từ dăm ba năm trước còn việc ngươi bị tập kích trong Ảo hải, được Trầm Địch bảo hộ khi ngươi mới vào Ngự Kiếm đường cũng là thời gian đó nhỉ? Ta nhớ lão bản Dị bảo quán nói là nếu không gặp phải sức công kích siêu cường thì Trầm Địch sẽ không như thế, cũng như nếu không phải pháp thuật hỏa diễm cực mạnh thì sao có thể đồng thời đốt cháy bốn khối vẫn thạch này, có phải lúc đó ngươi cũng có mặt chăng?”
Không đợi Trương Úy lên tiếng, Hoàn Lan đã mẫn cảm tranh quyền: “Ái chà, năm ta và Trương Úy vào Ngự Kiếm đường là vừa tròn trăm năm Đọa Thiên đại nhân khứ thế. Trương Úy, có nhớ ngươi bị tập kích vào tháng mấy không?”
Việc này qua lâu rồi, Trương Úy không còn nhớ kỹ nữa, cũng may mỗi năm Ngự Kiếm đường bắt đầu học vào cuối tháng, gã tính một lúc, tỏ vẻ không chắc: “Đầu tháng Ba.”
“Có phải ngày mùng ba tháng Ba?” Hoàn Lan lại hỏi gặng.
Lòng chúng nhân thắt lại, biết người Thục Sơn đều tế bái vào ngày lễ thọ chứ không tế điện gì vào ngày Vương Lẫm khứ thế, bởi họ tin có ngày ông ta sẽ quay lại chứ chưa chết, tế điện hóa ra trở thành hành vi bất kính. Thành ra ai cũng biết ngày ông ta rời bỏ cõi đời là mùng ba tháng Ba nhưng không bày nghi thức đặc biệt gì.
Trương Úy khó khăn lắc đầu không dám khẳng định, cũng may năm đó Hoàn Lan cùng điện với gã, cả hai xòe ngón tay đếm lại, sau cùng gã hít sâu một hơi, ngẩng lên nhìn cả nhóm: “Hôm đó có lẽ là mùng ba tháng Ba.”
Bốn năm trước, ngày ba tháng Ba, ngày Vương Lẫm an bài sẽ chuyển thế sau trăm năm, thật ra đã xảy ra chuyện gì trong Ngũ hành trận? Có phải vì thế Vương Lẫm không trở về được? Các thiếu niên gần như đồng thời nghĩ vậy, đứng trong khu rừng viễn cổ rực linh quang, cùng đột nhiên thấy khẩn trương khi chân tướng bí ẩn sắp được vén màn. Tối đó Mộ Dung Trinh Lộ ngủ không sâu, nửa đêm tỉnh lại rồi không ngủ được nữa, khoác áo vào, ra khỏi tiểu viện, đi dạo trong Ngự Kiếm đường vắng lặng.
Trăng lên giữa trời, Ngự Kiếm đường ban ngày còn đầy náo nhiệt giờ im phăng phắc, ngoài xa giữa màn đêm có hai ngọn phong đăng trôi xa dần. Mộ Dung Trinh Lộ nhìn kỹ, là Tần ma ma của Mai uyển và Phúc bá của Tùng uyển đang xách đèn. Tần ma ma thân hình phốp pháp, tựa đầu vào bờ vai gầy guộc của Phúc bá, cơ hồ dồn trọng lượng toàn thân lên đó khiến Mộ Dung Trinh Lộ lo rằng Phúc bá cất bước là sẽ gục xuống, nhưng hai người đều vui vẻ, bước chân nhẹ nhàng đầy hạnh phúc.
Nhìn hai người khuất bóng, nàng ta chợt nhận ra mình đang nở nụ cười. Vốn đã nghe đồn về việc của hai người đó nhưng tối nay mới tận mắt thấy lần đầu tiên, chợt nghĩ: Hai người quen nhau lâu như vậy, sao năm nay đột nhiên lại gần nhau, có điều gì trong đó chăng. Bất quá việc này lại trở thành phúc của các kiếm đồng, họ không còn kiểm tra nghiêm khắc nữa, kiếm đồng về muộn dễ dàng thoát tội. Nàng ta lại nghĩ đến Đường Mật, hài tử này có tiếng hay về muộn, không hiểu hôm nay có nhân cơ hội chăng?
Nàng ta đi về phía Mai uyển, mới đến cửa thì dừng lại bật cười, nhớ lúc còn là kiếm đồng rất sợ điện phán hay giám thị người khác, sao lúc trở thành điện phán thì lại như thế? Nàng ta liền quay về. Các điện phán ở trong một viện tử riêng rẽ phía đông Ngự Kiếm đường, sát na Mộ Dung Trinh Lộ đẩy cửa bước vào, chợt nhận ra bất thường, bàn chân dừng trên không định rút lại nhưng không kịp. Nàng ta cảm nhận chân bị luồng đại lực cuốn chặt, cúi nhìn lại không thấy gì, nhìn xéo bên sườn thấy một sợi tơ mảnh gần như trong suốt đang quấn lấy đùi mình.
Mộ Dung Trinh Lộ cả kinh, tuốt kiếm định cắt đứt sợi tơ. Kiếm tên Thừa Ảnh, thân kiếm bằng tinh thiết màu lam đậm có dấu rỉ sét màu vàng chanh, từng bị Mộ Dung Phỉ trêu rằng kiếm cũng cổ quái như người, song đấy chính là tinh thiết cứng rắn nhất trong thiên hạ. Thừa Ảnh chém lên sợi tơ, Mộ Dung Trinh Lộ cảm giác chém vào nham thạch, sợi tơ còn bé hơn sợi tóc không đứt mà lóe lãnh quang hất Thừa Ảnh ra.
Tiếng cười vang lên, Mộ Dung Trinh Lộ nhìn theo tiếng nói, trên cây đào trong sân không biết từ lúc nào đã có một người ngồi, tấm áo dạ hành màu đen bó lấy thân thể đầy đặn, mặt che khăn chỉ lộ ra đôi mắt đong đưa, thoáng nhìn cũng biết là nữ tử. Nữ tử dùng giọng ngọt ngào: “Ai cũng bảo tú sương thiết là tinh thiết cực phẩm, nhưng hóa ra cũng thế mà thôi, Ẩn chu ti của ta còn hơn…”
Biết rằng gặp phải đối thủ mạnh, nàng ta vận đủ chân khỉ lên tay chém Ẩn chu ti, cắt đứt sợi tơ mảnh rồi nhảy lùi lại, lùi ra ngoài cửa, tỏ vẻ khinh thường: “Đánh lén đắc thủ mà thôi, tà ma oai đạo có đáng gì.”
Nữ tử đó giơ tay, điểm điểm hàn quang lóe lên trong đêm tụ về phía tay ả, tựa hồ thu hồi Ẩn chu ti: “Sao ngươi không hỏi ta vào được Ngự Kiếm đường được kết giới trùng trùng bảo vệ này bằng cách nào?”
Từ giây khắc đầu tiên Mộ Dung Trinh Lộ đã tự hỏi câu này, trăm năm nay chưa từng xảy ra việc người ngoài xuyên qua được kết giới của Đọa Thiên đại nhân bố trí, nghĩ đến việc nữ tử này có được sức mạnh ấy, nàng ta lại lạnh ngắt cõi lòng, cũng may kinh nghiệm giang hồ phong phú nên không đổi sắc hỏi: “Ta hà tất quan tâm xem ngươi vào bằng cách nào, bất quá kẻ không mời mà đến Thục Sơn đều không có kết quả tốt.”
Nữ tử không hề giận, lại khẽ cười: “Vậy ư, Thục Sơn chẳng qua dựa vào trò cũ mà thôi, ta tưởng Ngân Hồ thế nào, không ngờ kết giới y bày bố cũng thế mà thôi. Để xem các ngươi không còn Đọa Thiên bảo vệ, giở được trò gì nhỉ.”
Mộ Dung Trinh Lộ toát mồ hôi lạnh, buột miệng: “Ngươi nói gì, việc đó có gì liên quan với kết giới của Tạ điện giám?”
Nữ tử cười nghiêng ngả, gõ gõ ngón tay trắng ngần vào cành cây: “Thế nào, ngươi còn không biết hả? Sức mạnh của Đọa Thiên đã tan biến rồi. kết giới bảo vệ ở đây hình như do Ngân Hồ bố trí, kết giới mọi nơi khác đều do tông chủ, chưởng môn bố trí lại. Nha đầu đáng thương, giờ vẫn còn kê cao gối ngủ, nếu Đọa Thiên đại nhân mà các ngươi sùng kính không mau chuyển thế thì Thục Sơn còn gì để dựa dẫm?”
Thoáng chốc đầu óc Mộ Dung Trinh Lộ trống rỗng, rồi tức giận quát lên: “Yêu nghiệt ở đâu đến đây nói nhăng nói cuội.”
Nữ tử xoay người nhẹ nhàng đáp xuống đất: “Ta biết Thục Sơn các ngươi khó lòng chấp nhận chuyện này nhưng tiếc là sự thật như thế. Nghĩ mà xem, nếu kết giới của Đọa Thiên bố trí vẫn còn thì ta vào được sao.”
Mộ Dung Trinh Lộ biết đối phương nói có lý, nhưng dù sao cũng không thể thua về khí thế, rung trường kiếm chỉ vào ả: “Dù không có kết giới của Đọa Thiên đại nhân thì ngươi tưởng có thể thắng được kiếm của ta ư?”
Nữ tử không áp sát, cười khẽ: “Mộ Dung Trinh Lộ, đến Thục Sơn từ bé, cực kỳ có thiên phú về kiếm pháp, sau đó lên Kiếm tông được trưởng sứ Tả Hoài Sơn thân truyền, được coi là đệ tử có tiềm lực nhất của Kiếm tông, tiếc là xuất sư rồi thì kiếm pháp không tiến bộ nữa, lang thang giang hồ, hoang phế nhiều năm, năm ngoái mới được Mục Hiển triệu hồi, ta không nói sai chứ?”
Lòng Mộ Dung Trinh Lộ thắt lại, giơ kiếm ngang ngực: “Ngươi là ai?”
“Ta là người tìm lễ dâng lên lễ chúc thọ của Ma vương bệ hạ.” Giọng nữ tử đượm niềm vui: “Đêm trăng tròn rằm tháng Tám là lễ thọ của Ma vương bệ hạ, lấy Ngự Kiếm đường dâng cho người là lễ vật hay nhất.”
Với người bình thường, rằm tháng Tám là tết Trung thu về nhà đoàn viên, các kiếm đồng không về nhà được nên được chấp thuận dự tiệc đêm, thậm chí uống một chút rượu. Bọn Đường Mật vì vào tra xét rừng Ảo hải mà lỡ mất, lúc ra khỏi rừng, Trương Úy ngẩng nhìn ánh trăng trên đầu nói: “Đi mau, sắp đến giờ Ngự Kiếm đường đóng cửa rồi.”
Tiếng chuông đóng cửa chưa vang, cả nhóm vì từng trở về vào lúc còn gấp hơn thế này nên giờ đi không nhanh lắm. Đường Mật nói: “Chậm một chút cũng không sao, hôm nay Ngự Kiếm đường chắc náo nhiệt lắm, Tần ma ma và Phúc bá chắc đi ngắm trăng rồi, chúng ta không bị phát hiện đâu mà lo.”
“Nếu không vào được thì nghỉ đêm ở Thuật tông, tối này người các tông đều đến Vô Lượng phong ăn Trung thu, uống say sẽ nghỉ lại đó, chỉ còn binh tôm tướng cá như chúng ta ở lại trông coi, các vị đến không sao đâu.” Mộ Dung Phỉ đề nghị.
“Chắc các điện phán Ngự Kiếm đường cũng ở Vô Lượng phong, Mộ Dung đường tỷ nói là mấy người còn ít kinh nghiệm sẽ ở lại, nếu không vào được, ngươi sai hồn thú báo tin nhé, tỷ ấy có cho chúng ta vào không?” Bạch Chỉ Vi hỏi.
Đang cười nói, Hoàn Lan đi đầu tiên chợt dừng phắt lại, quay người đặt tay lên môi ra hiệu im lặng, đoạn chỉ chỉ vào bụi cây hai bên đường, hàm ý cùng ẩn mình vào. Bọn Đường Mật không hiểu nguyên nhân nhưng cứ lao vào, thu liễm hô hấp, quan sát bên ngoài qua kẽ lá.
Cả nhóm đang ở ngã rẽ trên từ dãy bậc đá nối với sơn đạo thông lên Ngự Kiếm đường, lên sơn đạo đi không bao xa là đến chính môn.Một chốc sau, cả nhóm nghe thấy tiếng vó ngựa trầm trầm từ xa vang đến, rồi hơn mười thớt tuấn mã lướt nhanh qua sơn đạo về phía Ngự Kiếm đường. Đợi đối phương đi khỏi, Hoàn Lan nhíu mày nói với bốn đồng bạn: “Nhìn rõ không, mười sáu thớt tuấn mã, vó đều được bọc da trâu.”
Thần sắc Mộ Dung Phỉ trầm xuống: “Đúng, trên lưng ngựa toàn người mặc áo dạ hành lại bịt mặt, tư thế cưỡi đều là cao thủ, xem ra lai giả bất thiện.”
“Dù có mười sáu cao thủ, nhưng ban đêm tập kích Ngự Kiếm đường không khỏi…” Trương Úy chưa dứt lời liền nhớ ra kết giới bảo vệ hiện giờ do Ngân Hồ bố trí, dù sức đại ca đến đâu cũng sánh được Đọa Thiên đại nhân, nếu trong mười sáu người này có cao thủ ngang với Tạ Thượng, thậm chí kém hơn nhưng mười sáu người liên thủ thì chưa biết chừng sẽ phá được. Tạ Thượng và đại đa số điện phán đều ở trên núi, giờ là lúc Ngự Kiếm đường yếu nhất. Gã nhìn bốn đồng bạn, qua thần sắc biết họ cũng nghĩ tới khả năng này, liền hỏi: “Các ngươi thấy thế nào?”
“Chúng ta cứ lén qua xem ý đồ của chúng là gì rồi tính.” Đường Mật đáp.
Năm thiếu niên e ngại võ công của mười sáu người đó, không dám dùng khinh công áp sát, cũng may họ ẩn thân cách Ngự Kiếm đường không xa, với pháp thuật của năm đứa có thể độn thổ tới được, liền cùng ngưng tụ tâm lực thầm niệm khẩu quyết, sát na sau cả năm từ từ chìm xuống đất, tan biến giữa cây cỏ dưới ánh trăng bạc.
Lúc Đường Mật từ dưới đất nhô lên, biết rõ trên mình không dính đất nhưng vẫn theo thói quen phất tay áo khắp người, Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ như hai mầm măng non nhú lên dưới gốc cổ thụ đã ước định trước, còn nó cách hai bước mới đến, thầm lấy làm hổ thẹn, may mà Bạch Chỉ Vi cùng Trương Úy còn cách mục tiêu xa hơn mới khiến nó dễ chịu đôi chút. Bình thường tất nó sẽ tự khen mấy câu nhưng hôm nay không còn lòng dạ nào nữa, kéo Bạch Chỉ Vi và Trương Úy nhảy lên cây ẩn mình sau tàng lá. Cùng lúc, tiếng chuông đóng cửa của Ngự Kiếm đường gióng lên.
Tiếng chuông gióng lên yên ổn như thường, các thiếu niên lại thắt lòng, tựa hồ dự cảm được đại sự sắp xảy ra. Quả nhiên, chuông tắt chưa lâu, mười sáu hắc y nhân như quỷ mị xuất hiện ở bên ngoài bức tường Ngự Kiếm đường. Các thiếu niên ở xa nên không nghe rõ toán hắc y nhân thì thầm, chỉ thấy chúng chỉ chỉ trỏ trỏ đoạn men tường tản đi.
Mộ Dung Phỉ thấy những kẻ đó biến mất, hạ giọng: “Hình như chúng đang tìm chỗ dễ đột phá kết giới nhất?”
Năm đứa bất động mai phục hồi lâu trên cây, phía trong tường dần tĩnh lặng, mười sáu người kia quay lại. Xem ra họ đi một vòng, sau cùng chọn nơi bọn Đường Mật ẩn thân không xa để động thủ. Một hắc y nhân thân hình nhỏ thó giơ tay, dải vân vụ lấp lánh tỏa ra, dải vân vụ dừng sững cách bức tường Ngự Kiếm đường nửa thước, như vấp phải bức tường vô hình rồi tan biến. Giọng hắc y nhân đó loáng thoáng vọng lại: “... Ẩn chu ti bố trí xong rồi… Một đòn đánh gục…” Đường Mật không thấy “tơ nhện” nào hết, nghiêng đầu đổi góc độ nhìn, lòng chợt lạnh ngắt, phía trước mặt hắc y nhân đó có một tấm lưới khổng lồ dính chặt lên kết giới vô hình, sáng lên ngân quang dưới ánh trăng, tựa ngàn vạn con đỉa hút máu đang tham lam hút lấy sức mạnh phòng ngự của kết giới. Chừng một tuần trà sau, nữ tử nhỏ thó quát khẽ: “Coi như xong rồi, xuất kiếm.” Mười lăm người còn lại nghe hiệu lệnh, đồng thời bạt kiếm tấn công kết giới đầy tơ nhện, thoáng chốc cả Ngự Kiếm đường sáng lên hàn quang, nữ tử đó cười bảo: “Được, phá xong rồi, sức mạnh của Ngân Hồ cũng không đến mức như lời đồn.”
Các thiếu niên bình tĩnh nằm trên cây, đợi toán hắc y nhân nhảy qua tường vào Ngự Kiếm đường, mới thở phào lên tiếng. Trương Úy hỏi Đường Mật: “Các ngươi bảo chúng sẽ làm gì?” Những thiếu niên còn lại cũng nhìn nó.
Đường Mật lúc đó mới nhớ ra trong tình huống nguy hiểm thế này, nó cần đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, nhíu mày suy ngẫm rồi nói: “Năm chúng ta không đánh lại chúng, chúng ta nên sai hồn thú báo tin gọi người ra cứu.”
“Tìm ai đến cứu bây giờ?” Hoàn Lan hỏi.
Đường Mật ngẩn ra, hiện giờ không còn ai cho bọn nó hoàn toàn tin tưởng, chợt hoảng lên. Nhưng nó nảy ngay ra chủ ý: “Chúng ta cứ lên Vô Lượng phong lớn tiếng gọi cứu mạng, kinh động tất cả. Bất quá, chúng ta nên lén quay về trước xem chúng làm gì, nếu chúng định hạ độc thủ với tất cả thì chúng ta nên đi còn nếu chúng vung kiếm sát nhân thì chúng ta đành…” Nó chợt do dự, nếu là vậy thì nó và bốn nhóc con này làm được gì? Nghĩ đoạn nó ngẩng nhìn bốn đồng bạn đợi đáp án.
“Đành liều mạng thôi.” Trương Úy quả quyết.
Mộ Dung Phỉ lập tức phản bác: “Không, như thế thì chúng ta cũng chỉ nên ẩn mình tìm cách cứu người, ưu thế duy nhất của chúng ta là chưa lộ diện. Hiện tại Ngự Kiếm đường chỉ còn vài điện phán, chọi cứng thì kiểu gì chúng ta cũng bất lợi. Ngự Kiếm đường đông người như thế, chúng muốn cũng không thể giết hết ngay, chúng ta còn sống là còn cơ hội.”
Trương Úy lạnh buốt cõi lòng, buột miệng: “Lẽ nào trơ mắt nhìn chúng…” Gã chưa nói dứt lời đã bị Bạch Chỉ Vi kéo áo, thiếu nữ thần sắc băng lạnh trừng mắt: “Cứu một người với trăm người, bên nào quan trọng hơn.”
Trương Úy tuy không phản bác nhưng thần sắc không vui. Đường Mật biết gã sinh trưởng trong hoàn cảnh khác với Mộ Dung Phỉ, Hoàn Lan và Bạch Chỉ Vi, với người trong vương gia đại tộc, hi sinh thiểu số để bảo vệ đa số là việc đơn giản, nhưng gã thì thà hi sinh mạng mình cũng phải giữ được tính mạng người khác. Nó kéo tay gã: “Đầu to, tin ta đi, chỉ còn một chút hy vọng thì ta sẽ cố gắng để tất cả cùng sống sót.” Cả ba không dám chần chừ nữa, nhảy qua bức tường bao Ngự Kiếm đường, thương lượng xong xuôi phân công Đường Mật, Hoàn Lan và Trương Úy đến chỗ các kiếm đồng, Bạch Chỉ Vi và Mộ Dung Phỉ đến chỗ các điện phán xem xét tình hình.
Ba người bọn Đường Mật nảy lên nóc nhà, ẩn mình vào chỗ cành cây cổ thụ xòa lên nóc điện, thoáng sau đến sát Tùng uyển và Mai uyển, từ xa đã thấy trên tường bao có hơn mười hắc y nhân đứng sừng sững, tựa hồ đang giám sát mọi động tĩnh bên trong. Đường Mật xua tay ra hiệu cho hai đồng bạn dừng lại, thấp giọng: “Chỉ có mười hai người.”
“Bốn tên còn lại có lẽ cao thủ của chúng. Đại khái để đối phó các vị điện phán, những vị nào ở lại phòng thủ?” Hoàn Lan hỏi.
“Mộ Dung tỷ tỷ, Tuyên điện phán, Diêm điện phán và Chúc thủ thư.” Đường Mật đáp. “Tình hình cho thấy chúng chuẩn bị động thủ, chúng ta quan sát thêm một chốc, nếu còn không động tĩnh gì thì chúng ta báo tin.”
Ba đứa đợi không bao lâu, Mộ Dung Phỉ và Bạch Chỉ Vi lén quay lại, Bạch Chỉ Vi tỏ vẻ lo lắng: “Bốn người nhóm Mộ Dung tỷ tỷ đã bị bắt, chúng trói họ bằng Ẩn chu ti nửa ẩn nửa hiện. Bốn địch nhân võ công thậm cao, theo ta thì ở Thục Sơn, trừ điện giám và hai vị tông chủ cùng các trưởng sứ, không ai địch nổi chúng.”
Đường Mật hít sâu một hơi khí lạnh, cỗ ép mình lãnh tĩnh lại, hỏi: “Chỉ là chế trụ thôi, không giết người?”
“Đúng, chỉ chế trụ, không giết người.”
“Xem ra mục đích của chúng không phải là sát nhân phóng hỏa.”
“Chúng ta loáng thoáng nghe thấy nữ tử phá kết giới nói là lấy Ngự Kiếm đường làm lễ mừng sinh thần Ma vương.” Mộ Dung Phỉ đáp.
Đường Mật nhíu mày: “Là người Ma cung, sao chúng lại tập kích Thục Sơn mà không thông tri cho ta một câu nhỉ, lẽ nào vẫn không tin ta? Chúng ta đừng đi vội, đến gần Tùng uyển chút nữa xem chúng định làm gì?”
Năm người ẩn thân trong vùng tối bức tường, đến sát Tùng uyển, nhận chuẩn một tàng cây rậm rạp rồi phi thân lên cành, nhìn qua kẽ lá. Hai chiếc phong đăng treo ở cửa Tùng uyển sáng rực trong bóng tối, cánh cửa đóng chặt, bên trong im lìm, chắc các kiếm đồng đã ngủ rồi mà không hề biết rằng trên tường còn hơn mười đôi mắt ý đồ bất minh đang giám thị. Không lâu sau, hai người từ tiền điện thong thả đi tới, Đường Mật nhận ra điện phán Tuyên Di và Diêm Giai Chi. Nó nghi hoặc nhìn Mộ Dung Phỉ, quá gần toán bịt mặt nên y không dám lên tiếng, chỉ lắc đầu hàm ý bản thân cũng không hiểu cơ sự.
Tuyên Di và Diêm Giai Chi cầm trong tay một cái thanh la đồng vốn được sử dụng trong tình huống khẩn cấp hoặc xảy ra hỏa hoạn. Tuyên Di cầm thanh la đi về phía Mai uyển, Diêm Giai Chi dừng lại trước cửa Tùng uyển, gần như đồng thời gõ mạnh, tiếng keng keng vang lên gấp gáp, bên trong lập tức nháo nhác.
Xông ra khỏi Tùng uyển đầu tiên là Đặng Phương, áo quần còn nhàu nhĩ, đầu tóc rối bù, cầm kiếm lao ra khỏi cửa, lớn tiếng: “Diêm điện phán, sao rồi, sao rồi?” Y chưa kịp nhìn rõ thì người bịt mặt mai phục trên tường giơ tay, tựa hồ ném thứ gì đó, y liền im lặng đến bên Diêm Giai Chi. Gần như đồng thời, hơn mười người mai phục trên tường Tùng uyển và Mai uyển cũng xuất thủ với các nam nữ kiếm đồng, không hiểu chúng bắn ra thứ gì mà tất cả đều như Đặng Phương, bị bắn trúng rồi đều im lặng. Các kiếm đồng chạy ra sau cũng cảm thấy không ổn, chạy về phía Diêm Giai Chi, hỏi: “Diêm điện phán...” Chưa dứt lời đã bị người bịt mặt trên tường bắn trúng, có kiếm đồng cảnh giác, tuy không hiểu chuyện gì nhưng theo bản năng chạy vào bên trong ẩn nấp, có điều chân chưa qua cửa đã bị bắn trúng, thân hình cứng đơ, khẽ khép cửa rồi quay lại. Thoáng sau, toàn bộ kiếm đồng đều bị bắn trúng, viện tử ban nãy còn xôn xao chợt tĩnh lặng lại.
Các thiếu niên trên cây nhìn nhau, đều tỏ vẻ không tin nổi, không thể ngờ Tuyên Di và Diêm Giai Chi lại là gian tế Ma cung. Đường Mật chuyển động tâm trí, đổi góc độ nhìn Diêm Giai Chi, phát hiện cách sau lưng y không xa, dưới vùng tối không được ánh đèn rọi tới có một sợi Ẩn chu ti vươn dài về phía y đứng. Kỳ dị là trong bóng tối nhìn ra ánh trăng mờ mờ còn thấy được Ẩn chu ti chứ dưới ánh trăng vằng vặc thì không thấy gì.
Hành động cổ quái của Diêm điện phán phải chăng liên quan đến sợi tơ? Nó nháy mắt ra hiệu, chỉ chỉ vào sợi tơ, ra hiệu chúng nhân đổi góc độ quan sát. Mấy đứa hiểu ý, khẽ ngoẹo đầu, thử nhìn các kiếm đồng đang bất động dưới sân theo hướng khác, hóa ra trên cổ mỗi người buộc một sợi tơ trong suốt, đầu kia sợi dây nằm trong tay toán người bịt mặt trên tường.
Diêm Giai Chi lấy danh sách ra điểm danh, các nam kiếm đồng đáp lại theo kiểu cơ giới, đến tên Trương Úy thì hai ba lần liền vẫn không thấy ai đáp. Điểm danh xong, hình như có ai đó phát ra mệnh lệnh vô thanh, mọi kiếm đồng quay người tự về phòng.
Trong vùng tối cách Diêm Giai Chi không xa vang lên giọng nam tử cười âm lạnh: “Không ngờ Ngự Kiếm đường còn có hài tử ham chơi chưa về.”
“Đúng là phiền hà, còn thiếu hai nữ hài tử.” Giọng nữ mềm mại nói, chính là nữ tử phá kết giới.
Giọng nam tử đó chợt lạnh đi: “Phái người đi chế trụ mọi tạp dịch đã, không để thoát bất kỳ ai của Ngự Kiếm đường, vạn nhất để thoát thì ngày mai sẽ khó khăn không nhỏ đâu. Chúng ta hợp lực phong bế nơi này, mấy tiểu quỷ ham chơi chỉ cần còn ở trong tất sẽ tìm ra, phái ba người vào rừng tìm, tìm thấy giết luôn cũng được, dù sao thiếu ba đứa thì cũng không bị lộ.”
Các thiếu niên trên cây đều nhìn Đường Mật, nó biết không thể để đối phương đến dồn tất cả thành ba ba trong rọ, sinh cơ duy nhất là dùng Ma La vũ xuất kỳ bất ý đào tẩu, bèn quả quyết: “Chạy.”
Nam tử ẩn trong bóng tối chưa bố trí xong, trên cây gần đó thoáng động, hắn ngẩng nhìn thấy mấy bóng thiếu niên gầy gò lướt đi trong bóng đem như con dơi, hắn cả kinh hạ lệnh: “Huyền Phong, dẫn hai người đuổi theo.” Một người bịt mặt đứng trên tường liền gọi hai người khác lao đi. Nam tử nhìn theo hướng các thiếu niên vừa đi: “Thân pháp nhanh lắm, tựa hồ không chỉ có ba đứa, lẽ nào ta nhìn lầm.”
Nữ tử cạnh đó nghe thấy giọng nói của y hơi bất an, lại cười khanh khách: “Yên tâm, nhanh hơn được Huyền Phong sao? Thêm cả Thanh Ngưu, Ngọc Dương thì đối thủ có là mười kiếm đồng cũng không ngại.”
“Ừ, không cần bắt sống thì không dễ đối phó, chỉ là lần này vốn không định sát nhân.” Nam tử nói xong, ngón tay dài mảnh hữu lực khẽ giật, Ẩn chu ti quấn quanh ngón tay thu lại. Diêm Giai Chi đứng ngoài vùng sáng từ từ đi vào bóng tối.