Dư Tắc Thành bắt đầu lấy một nửa nguyên liệu kia ra luyện chế, dần dần luyện chế Tinh Hà Thiên Ngân Sa, Thái Cực Tử Khí Nguyên Ngân, Nhị Khí Hỗn Độn Kim Tinh. Tam Thiên Đại Đạo Bản nguyên Thiết, Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng thành Nguyên Tinh có thể dùng luyện kiếm.
Từ quá trình luyện chế nguyên liệu, đến luyện hóa năm loại Nguyên Tinh, đến luyện chế phi kiếm, hết thảy phải trải qua quá trình dày công tính toán, có thể nói là chính xác tới cực điểm.
Bởi vì Dư Tắc Thành không có nhiều tinh lực và thời gian để lãng phí, cũng không có nhiều nguyên liệu để có thể thoải mái tiêu hao. Dù với số nguyên liệu hiện có, Dư Tắc Thành có thể luyện chế được nhiều phi kiếm hơn nhưng hắn cũng không có đủ chân nguyên để điều khiển nhiều phi kiếm như vậy.
Theo tính toán của Dư Tắc Thành, đã có sẵn ba thanh phi kiếm cửu giai, hắn sẽ dùng nguyên liệu đã luyện chế xong luyện hóa ba thanh mẫu kiếm, tổng cộng sẽ có được sáu thanh phi kiếm, dùng chúng để hình thành kiếm cưu.
Trải qua một tháng khổ tâm tế luyện, rốt cục năm loại Nguyên Tinh của Dư Tắc Thành mỗi loại đã luyện được vài cân. Lúc này Dư Tắc Thành mới hiểu ra vì sao năm xưa Kiếm Lão Nhân chỉ dùng bảy lạng Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng luyện kiếm. Thì ra bảy lạng Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng này mình phải dùng bảy trăm cân Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng thô tinh luyện lại mới có được.
Đầu tiên Dư Tắc Thành luyện một đôi phi kiếm, chính là Kim Dực kiếm. Năm xưa Đại sư huynh cho mình đôi Thiên Tân kiếm, hiện tại mang chúng ra luyện chế. Chúng đã theo mình bao nhiêu năm, có thể nói là phi kiếm mình yêu nhất, cho nên luyện chế chúng trước tiên.
Quan trọng nhất đây là mẫu kiếm của Kiếm Phi Dực, tương thông huyết mạch với Dư Tắc Thành. Đây là thần uy của Hiên Viên mẫu kiếm, có thể rạn vỡ chứ không bị diệt.
Dư Tắc Thành chọn ra bốn lạng Thái Cực Tử Khí Nguyên Ngân, coi đây là nguồn, hai thanh mẫu kiếm bắt đầu toát ra khí tím cuồn cuộn. Thêm vào một lạng Nhị Khí Hỗn Độn Kim Tinh, mỗi thanh nửa lạng, phân chia đôi mẫu kiếm này thành âm dương nhị kiếm. Lại thêm một lạng Tam Thiên Đại Đạo Bản nguyên Thiết, mỗi thanh nửa lạng, dùng nó để thu nạp lực Đại Đạo của mình. Sau cùng thêm tám lạng Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng, tổng cộng là một cân bốn lạng nguyên liệu.
Luyện kiếm như vậy không hẹn mà hợp với cách luyện bảy lạng Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng năm xưa của Kiếm Lão Nhân. Sau đó Dư Tắc Thành bắt đầu tế luyện, dung nhập dần dần một cân bốn lạng Nguyên Tinh này vào hai thanh mẫu kiếm Kiếm Phi Dực của mình.
Lượng Nguyên Tinh như vậy nhìn qua rất ít, chỉ tính bằng lạng, thật ra phải dùng trăm cân nguyên liệu mới có thể tinh luyện ra một lạng, từ đó có thể thấy được quý giá đến mức nào.
Số Nguyên Tinh này dần dần dung nhập vào phi kiếm. Trước kia Dư Tắc Thành đã tế luyện đôi mẫu kiếm này rất nhiều lần, nhưng lần này, tất cả loại vật chất có trên phi kiếm đều bị bốn loại Nguyên Tinh này hấp thu, hóa thành một phần của chúng.
Dư Tắc Thành lặng lẽ niệm chú, tế luyện phi kiếm, lập tức hai thanh mẫu kiếm này lấy Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng làm cơ sở, lấy Thái Cực Tử Khí Nguyên Ngân làm nguồn, ẩn chứa Nhị Khí Hỗn Độn Kim Tinh, hóa sinh âm dương, dần dần xuất hiện kiếm hình.
Bước cuối cùng, Dư Tắc Thành rống to một tiếng, Vạn Lôi tiên nhãn bừng mở, lôi quang vô tận cuồn cuộn bên trong.
Dư Tắc Thành giơ tay kéo mạnh một cái, lập tức móc Vạn Lôi tiên nhãn ra khỏi trán mình, sau đó cho vào trong kiếm hình đang lấp lánh hào quang. Đồng thời Dư Tắc Thành vận chuyển lực Thiên Đạo Phân Phân Hợp Hợp, cũng cho vào trong kiếm.
Lập tức trán Dư Tắc Thành chảy máu ròng ròng, mặt phủ đầy máu. Đây là tiên nhãn bị móc ra, thương tích khá nặng, không phải chuyện đùa, không thể khép lại ngay tức khắc. Nhưng Dư Tắc Thành cố chịu đau đớn, cố gắng thi triển pháp chú rót vào mẫu kiếm kia, hy vọng rằng mình sẽ được đền đáp xứng đáng.
Dần dần máu trên trán biến mất, tuy rằng tiên nhãn bị móc, nhưng sẽ dần dần khôi phục, bất quá cần vài năm tĩnh dưỡng, hẳn có thể lành lại trước khi đại chiến. Chẳng qua trong thời gian này, nó sẽ mất đi khả năng tiến hóa.
Nhưng Dư Tắc Thành không cần quan tâm, hắn chỉ quan tâm tới mẫu kiếm Kiếm Phi Dực của mình. Kiếm này ẩn chứa tâm nguyện rất lớn của mình, nếu như thuận lợi, sẽ có được lực Lôi Kiếp và đạo Phân Phân Hợp Hợp.
Có được hai loại lực Thiên Đạo này, mẫu kiếm của mình sẽ thăng lên phi kiếm bát giai. Tuy rằng muốn luyện chế chúng thành phi kiếm cửu giai sẽ vô cùng gian nan nhưng đã có nền tảng, vấn đề chỉ là thời gian.
Dư Tắc Thành nhẫn nại chờ đợi, sau một tháng không ngừng nuôi dưỡng, rốt cục phi kiếm đại thành, mẫu kiếm Kiếm Phi Dực lại biến hóa hình dáng. Mẫu kiếm Kiếm Phi Dực hóa thành một đạo kiếm quang lấy lôi đình trên chín tầng mây làm chuôi, lôi điện trên chín tầng trời làm lưỡi, quấn chặt vào nhau.
Đẹp quá, thích quá, Dư Tắc Thành nhìn không rời mắt, vô cùng vui sướng, đây là là đôi phi kiếm bát giai đầu tiên của mình.
Kiếm này giống như có hàng ngàn hàng vạn lôi điện tụ tập, không ngừng lồng lộn thét gào. Vô số lôi quang điện lưu tụ thành thân kiếm, không lúc nào yên tĩnh, lưu chuyển không ngừng từ cực động sang cực tĩnh rồi ngược lại, ảo diệu tuyệt luân.
Kiếm này ẩn chứa hai loại lực Thiên Đạo, lực Lôi Kiếp, đạo Phân Phân Hợp Hợp. Từ một thanh phi kiếm bát giai có thể hóa thành hai, bốn, sáu, ngàn vạn thanh.
Phi kiếm này hoàn toàn hợp với Kiếm Phi Dực của mình, hơn nữa là do tiên nhãn của mình luyện ra, là một phần thân thể của mình.
Kiếm quang chợt lóe, dung hợp thành một thể cùng tiên nhãn bị móc trên trán Dư Tắc Thành, nuôi dưỡng trong đó.
Có được đôi phi kiếm bát giai đầu tiên, Dư Tắc Thành bắt đầu luyện tiếp. Lần này hắn lấy Tinh Hà Thiên Ngân Sa, Thái Cực Tử Khí Nguyên Ngân, Nhị Khí Hỗn Độn Kim Tinh. Tam Thiên Đại Đạo Bản nguyên Thiết, Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng mỗi thứ hai lạng, luyện hóa chúng vào trong mẫu kiếm Kiếm Tâm Tuệ. Sau đó nuốt nó vào bụng mình, dung nhập vào lực Huyết Mạch của mình, sử dụng lực Huyết Mạch để luyện hóa nó. Luyện hóa kiếm này, Dư Tắc Thành mới hiểu được cảm giác của Tứ sư huynh năm xưa ngồi dưới gốc Bồ Đề ra sao.
Lấy thân luyện kiếm, huyết nhục tương liên, ba tháng sau, Dư Tắc Thành lại luyện ra được một thanh phi kiếm bát giai. Kiếm này là do lực Huyết Mạch ngưng kết, mẫu kiếm Kiếm Tâm Tuệ. Liếc mắt nhìn qua chỉ thấy một luồng huyết quang, giống như do vô số máu tươi ngưng kết mà thành. Nhìn kỹ lại, cảm nhận huyết mạch dung hợp bên trong, vô cùng u tĩnh, có cảm giác thân thiết không nói nên lời.
Luyện ra kiếm này, nguyên liệu cũng đã tiêu hao gần hết, còn một thanh cuối cùng, Dư Tắc Thành lấy mẫu kiếm Kiếm Ngưng Lão ra, bắt đầu tế luyện lại. :
Lần này hắn ngưng kết lực Sát Ma, Kiếm Ngưng Lão vốn là sắc bén, tụ tập lực Sát Ma quả là thích hợp. Kiếm này không cần nguyên liệu nào khác, chỉ dùng một thứ Nguyên Tinh duy nhất là Hỗn Nguyên Tử Kim Đồng chậm rãi tế luyện. Dư Tắc Thành rót sát ý của mình đối với Kim Tuyến Tôn Giả vào đó, được thanh thần kiếm chuyên giết loại người gian nịnh.
Vất vả trong ba tháng, Dư Tắc Thành lại được thêm một thanh phi kiếm bát giai.
Kiếm này vừa thành, lập tức toát ra sát khí ngút trời. Dư Tắc Thành chậm rãi mài, dần dần sát khí thu liễm, cuối cùng biến thành một thanh tiểu kiếm màu bạc dài một thước một tấc, bề ngoài không có vẻ gì là thần kỳ. Chỉ có điều trên thân kiếm khắc vô số phù văn màu vàng kỳ dị, chính là chữ Sát trong thượng cố yêu văn.
Dư Tắc Thành tế luyện xong thanh phi kiếm này, lập tức có cảm giác tinh lực hao hết, mệt mỏi vô cùng. Đây là lần luyện kiếm cuối cùng của hắn, cho dù còn tài liệu, hắn cũng không luyện nổi thanh phi kiếm thứ tư.
Sau đó trong một tháng, hắn bắt đầu lẳng lặng tĩnh dưỡng, vừa không tu luyện, cũng không luyện kiếm, chỉ có xem sách, cảm thấy mệt bèn ngủ, đói thì ăn. Rảnh rỗi đi dạo khắp nơi, du sơn ngoạn thủy, nghỉ ngơi như vậy chừng một tháng.
Cảm thấy đã đủ, hắn bèn tắm rửa thật sạch, trở vào thế giới Bàn cổ, đã tới lúc xem kinh.
Lần này Dư Tắc Thành nghiên cứu Minh Ma Kinh, kinh này năm xưa đoạt được ở Hà Gian phái, mãi tới này chưa xem, rốt cục đã tới lúc.
Nhìn bia đá Minh Ma Kinh. Dư Tắc Thành thi lễ ba bái, bái thiên, bái địa, bái kinh. Thiên địa hữu linh, Ma kinh cũng hữu linh, ba bái này cảm thiên địa, thông Ma kinh, sau đó mới bắt đầu giở ra xem.
Lập tức bia đá biến hóa, trở thành một dòng sông u Minh thật lớn chảy xung quanh Dư Tắc Thành. Dư Tắc Thành ngồi trên bờ sông, từ từ cảm ngộ Minh Ma Kinh này.
Trong u Minh cũng có ẩn tàng ánh sáng, lửa u Minh cháy ngút trời.
Trong Minh Ma Kinh ghi lại vô hạn pháp môn, toàn là các loại pháp thuật lấy hồn phách làm nguồn thi pháp. Sau đó từ thuật đi tới đạo, cuối cùng có thể thành lập thế giới minh phủ, hoặc tháp, hoặc các, hoặc cung, tụ tập phân tán vạn ức minh hồn, lấy đó làm gốc, làm nguồn, làm pháp, thu hoạch được lực lượng vô cùng. Còn có thể mượn không gian này chuyển hóa oan hồn, dung hợp cường hóa, phân giải, chế tạo, để được vô thượng thần ma.
Nếu tu luyện pháp thuật này đến cực hạn, hoàn toàn có thể khai thiên lập địa, tự thành một giới. Thậm chí có thể hủy thiên diệt địa, hủy diệt hết thảy.
Dư Tắc Thành xem xong những pháp thuật này, nhất nhất diễn luyện bên trong thế giới Bàn Cổ. Thế giới Bàn cổ là thế giới của hắn, ở trong này hắn muốn gì được nấy, vạn ức hồn phách hoàn toàn có thể mô phỏng ra. Đây là công năng mở rộng của không gian Diễn Võ cấp Hồng Hoang có được sau khi thế giới Bàn cổ tiến hóa.