Phần 03
Vùng đất hẻo lánh mà người tacấp cho thổ dân Úc là một hoang mạc cằn cỗi còn hạt phía Bắc là xử sở của những vách đá dựng đứng và cây bụi. Chiếc Land Cruiser của chúng tôi lắc mạnh trên con đường bụi bặm bị cày nát bởi những vệt bánh xe chạy dọc bờ sông. Một trạm trung chuyển điện tín xây bằng đá hiện ra trước mắt chúng tôi. Ở phía xa hơn là một bình nguyên thưa thớt cây cối và không một bóng nhà. Chúng tôi đi qua mấy cánh đồng dưa. Con đường thẳng tắp trải dài đến bất tận. Con đường rải nhựa sớm kết thúc khi chúng tôi rời khỏi thị trấn. Chúng tôi hầu như không thể nhìn thấy gì phía sau qua đám khói bụi khổng lồ đang cuộn lên vì chiếc xe. Một lúc sau cánh đồng biến mất và chúng tôi qua một trang trại chăn nuôi. Từng đàn bò đi dọc hai bên đường. Những con bò chết bị bỏ lại trên đồng cỏ. Lũ quạ đang bu đầy trên những cái xác đã trương lên vì nắng nóng.
Chúng tôi đến một thị trấn nhỏ giống như trong một bộ phim miền Tây. Những dãy phố oi bức và bụi bặm. Cạnh trạm xăng là một quán ăn có quầy bar bán rượu. Chúng tôi quyết định dừng lại để nghỉ ngơi và ăn uống. Có mấy người đàn ông đang chơi phi tiêu ngay gần lối vào. Bên trong quán tối tăm, những gã lái xe tải và công nhân xây dựng đang uống bia và ăn bánh nhân thịt. Cẳng chân lông lá thò ra khỏi quần soóc của họ to gần bằng eo tôi.
“Có phải tên của Aki được lấy từ Hakuaki, Kỷ Phấn Trắng không ạ?” Tôi hỏi mẹ Aki, bà đang ngồi cạnh tôi, mắt lơ đãng nhìn ra xa.
Bà giật mình quay về phía tôi. “Ừ. Bác trai nghĩ ra đấy. Sao vậy cháu?”
“Cháu cứ nghĩ Aki là mùa thu, suốt từ khi biết bạn ấy đến giờ. Bạn ấy lúc nào cũng ký tên theo kiểu chữ katakana khi gửi thư cho cháu.”
“Con bé lười lắm,” mẹ Aki nói. “Ngay cả Hiro trong Hirose cũng vậy đấy.”
Bà lấy ngón tay viết chữ “Hiro” theo lối phồn thể.
“Nếu viết tên đầy đủ của nó bằng chữ Hán thì nhiều nét lắm. Thế nên con bé dùng toàn chữ katakana để viết tên mình. Đấy là thói quen từ hồi tiểu học.”
Cha Aki trải bản đồ lên quầy tính tiền và xem xét cùng người hướng dẫn du lịch thuê ở Cairns.
“Đi khoảng 50 km nữa về phía Nam ta sẽ bắt gặp thánh địa của thổ dân Úc,” người hướng dẫn giải thích bằng một thứ tiếng Nhật trôi chảy. Anh ta từng sống ở Nhật Bản. “Chỗ đó bị cấm, nhưng tôi có giấy thông hành đặc biệt.”
“Có vào được bằng xe hơi không?” cha Aki hỏi.
“Chắc phải đi bộ một đoạn cuối.”
“Không biết tôi có theo được không,” mẹ Aki nói vẻ lo lắng.
Người hướng dẫn khẽ mỉm cười rồi ý tứ hỏi, “Bà tới đó để rắc tro con gái mình?”
“Con bé thật lạ phải không?” mẹ Aki đáp. “Trước khi mất, nó nhắc đi nhắc lại chuyện này như bị mê sảng. Lúc ấy, chắc con bé đã bắt đầu lẫn rồi, nhưng nó vẫn khiến chúng tôi thấy canh cánh ở trong lòng. Nếu không thực hiện được di nguyện cuối cùng ấy của Aki thì chúng tôi sẽ ân hẫn mãi về sau.”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Một người thổ dân luống tuổi với bộ râu quai nón đang ngồi dưới bóng cây keo uống rượu vang từ cái bịch giấy màu nâu. Một đám choai choai da đen độ mũ cao bồi đang đi ngang qua chỗ ông ta. Ngay cả đã sang đến Úc, tôi vẫn không thể tưởng tượng được Aki đã mất. Tôi cứ cảm thấy như em đang ở đâu đây. Tôi cứ cảm thấy sẽ bất đồ nhìn thấy em ở đây đó.
Người phục vụ bưng đến trước mặt tôi một cái hamburger khổng lồ và một chai coca. Thật kệch cỡm khi cứ phải ăn mà không có tâm trạng nào để ăn.
*****
Một bình nguyên màu nâu trải dài ngút mắt. Hầu như chẳng có lấy một vạt rừng. Chỉ có đám cỏ dại bám chặt vào mặt đất khô cằn đến nao lòng. Trên đỉnh một ngọn đồi đã phong hóa, một vài cây bạch đàn mọc tụm vào nhau. Đây đó, những tảng đá lớn nằm rải rác khắp nơi, người ta bảo chúng bị bắn ra khi núi lửa phun trào. Không có dấu hiệu của sự sống. Người hướng dẫn bảo ban ngày những con thú nghỉ ngơi trong hang và dưới các tảng đá để tránh nóng. Con đường trải nhựa đột ngột kết thúc, thỉnh thoảng bánh xe như bị thụt xuống vì mặt đất đỏ rất mềm. Chúng tôi đi qua vài con kangaroo đã chết. Trong số đó, có một con đã phẳng dẹt như tấm thảm lông bên vệ đường. Khi tôi quay lại nhìn, nó đã chìm sâu trong bụi.
Sau khoảng một giờ, trước mắt chúng tôi đột nhiên hiện lên một khu rừng xanh tốt. Phía trước rừng là một dòng sông nhỏ. Nước rất cạn, và một cây bạch đàn trắng đang mọc lên từ lòng sông. Một chiếc xe cắm trại đậu trên bờ, gần đó có hai gia đình người da trắng đang quay một con lợn. Người hướng dẫn ra khỏi xe, bước về phía gia đình đang ngồi trên mặt đất uống bia. Anh ta nói gì đó, giọng vui vẻ, và họ chỉ về phía con sông, tay vẫn cầm tập giấy dùng để lót đồ nướng.
“Họ nói nó ở phía bên kia dòng sông,” anh ta quay lại nói với cha Aki, lúc đó đang ngồi ở ghế lái. “Tôi sẽ dẫn đường.”
Anh ta lội nguyên giày xuống nước và dẫn chiếc Land Cruiser đến chỗ nước cạn có nền đất chắc chắn. Nhóm người da trắng nhìn theo chúng tôi vẻ tò mò. Khi xe qua được sông, người hướng dẫn trở lại ghế phụ.
“Nào, ta đi thôi.”
Một lối mòn đầy cát chạy dài trong khu rừng lờ mờ tối. Cha Aki thận trọng lái xe về phía trước trong ánh sáng yếu ớt. Trời bắt đầu nhá nhem. Bầu trời nhợt nhạt hiện ra giữa khoảng trống ít ỏi của những tán cây. Ánh sáng lờ mờ soi lên mặt đất.
“Tôi vẫn chưa hiểu lắm về chuyện giấc mơ của thổ dân Úc,” cha Aki nói trong lúc lái xe.
“Ừm, đối với người Úc bản địa, ‘giấc mơ’ có nhiều nghĩa,” người hướng dẫn giải thích. “Một trong số đó, theo thần thoại của một bộ lạc, có nghĩa là ‘tổ tiên’. Ví dụ, với bộ lạc ấy, nhắc tới một giấc mơ về wallaby thì trong đó, wallaby chính là tổ tiên của họ.”
“Ý anh là con chuột túi wallaby?” mẹ Aki cắt ngang.
“Không, wallaby ở đây với nghĩa là giấc mơ, tức là tổ tiên theo thần thoại của họ. Vị tổ tiên này tạo ra loài chuột túi wallaby và bộ tộc đó. Vậy nên họ và loài chuột túi wallaby đều là con cháu của thủy tổ wallaby.”
“Tức là bộ tộc wallaby và loài chuột túi wallaby là anh em?”
“Đúng. Và đấy là lý do bộ tộc wallaby không giết và ăn thịt wallaby vì điều đó đồng nghĩa với việc giết và ăn thịt anh em của mình.”
“Thật thú vị,” cha Aki nói, hoàn toàn bị thuyết phục. “Vậy ra chủ nghĩa Tô tem là như thế.”
“Ngoài ra còn có giấc mơ của mỗi cá nhân,” người hướng dẫn tiếp tục.
“Đó là gì?” cha Aki hỏi.
“Khi một người nào đó chào đời thì thứ mà mẹ anh ta nhìn thấy hay con vật hoặc cây cối mà mẹ anh ta bắt gặp trong mơ vào ngày hôm đó sẽ có chung linh hồn với anh ta. Những giấc mơ đó không bao giờ được nói ra. Đó là bí mật của từng cá nhân và được coi là đối tượng của tín ngưỡng.”
“Như vậy mỗi bộ tộc có một giấc mơ và mỗi người lại có một giấc mơ của riêng mình?”
“Đúng là như vậy.”
Thật khó để phân biệt mọi thứ. Cảnh vật mất đi độ sâu, hay đúng hơn, mất tính xa gần của chúng. Những thứ đáng ra phải ở xa lại trông rất gần trong khi những thứ đúng ra phải ở gần thì lại xa đến nỗi tưởng như không bao giờ chạm đến được.
“Người ta nói thổ dân chôn cất người chết hai lần,” người hướng dẫn tiếp tục. “Đầu tiên họ được chôn dưới đất như bình thường. Đây là lần chôn cất thứ nhất. Sau khoảng hai hay ba tháng, người ta đào lên và thu nhặt xương cốt. Họ sắp xếp xương trên một mảnh vỏ cây theo đúng hình dạng lúc còn sống của người chết, từ đầu đến chân. Sau đó họ đặt tất cả vào một khúc cây rỗng, đây là lần chôn cất thứ hai.”
“Tại sao họ lại làm thế?” mẹ Aki hỏi.
“Người ta tin rằng lần chôn cất đầu tiên dành cho da thịt và lần thứ hai dành cho xương cốt.”
“Tôi hiểu. Rất hợp lý,” cha Aki nói.
“Cuối cùng xương được mưa gột rửa và trở về với đất. Máu và mồ hôi trong cơ thể người chết thấm vào lòng đất và chảy xuống dòng suối ngầm thần thánh. Linh hồn cũng theo đến dòng suối, trở thành hồn sống và cư ngụ ở đó.”
Chúng tôi càng đi cây cối càng rậm rạp. Khi không thể đi ô tô được nữa, chúng tôi xuống xe. Rừng đã trở thành một thảm cây bụi với những cành gầy guộc, cong queo đan xoắn vào nhau tạo nên một cảnh tượng lạ lùng. Xuyên qua đó là một lối mòn chỉ đủ dành cho loài thú. Chẳng có gì ngoài tiếng bước chân chúng tôi. Thỉnh thoảng có cái gì động đậy trong những lùm cây gần đó, nhưng chúng tôi không thấy con thú nào.
Chúng tôi đi qua một bụi cây có gai nhọn tốt um như một con nhím khổng lồ giữa thảo nguyên vàng úa. Tới đây rồi thì chẳng còn biết lấy gì để làm mốc nữa. Ngoài một nhóm bạch đàn tươi tốt, thứ duy nhất mở rộng ra trước mắt chúng tôi là thảo nguyên khô cằn. Không ai nói gì. Trời vẫn sáng. Tôi nghĩ chúng tôi đã đi hàng giờ liền, nhưng có thể mới chỉ ba mươi phút. Môi tôi nứt nẻ bởi không khí khô rát. Tôi khát và ước gì có thể uống chút nước lạnh, nhưng đồng thời, tôi cũng cảm thấy như cơn khát ấy chẳng phải của mình.
Không lâu sau, chân chúng tôi bắt đầu bước lên cát và đá. Bên cạnh một tảng đá cuội khổng lồ mọc lên một loài thực vật giống như cây vạn tuế. Một con chim lớn màu nâu đang lượn vòng trên cao. Trèo lên khỏi một sườn dốc khá đứng, chúng tôi tới được bờ đá phẳng có vài ngọn cây trơ trụi lá, lớp vỏ xám của chúng nhăn nhúm nha da bà già. Một con chim lạ kêu lên. Một con thằn lằn bò qua tảng đá khố.
“Tôi nghĩ đến đây là được rồi,” người hướng dẫn nói.
“Chỗ này ư?” mẹ Aki hỏi, như thể nơi này không như bà mong muốn.
“Toàn bộ khu vực này.”
“Thế thì bắt đầu thôi,” cha Aki nói.
“Ông làm đi,” mẹ Aki nói, đưa chiếc bình cho chồng.
“Sao tất cả chúng ta không cùng làm?”
Lớp bột trắng lạnh ngắt trên tay tôi. Tôi không hiểu nổi nó là gì. Có lẽ trí óc tôi có thể, nhưng trái tim tôi thì không muốn hiểu. Nếu chấp nhận điều đó, tôi sẽ vỡ vụn. Như cánh hoa đóng băng trước cái búng tay, trái tim tôi sẽ vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
“Vĩnh biệt Aki,” tôi nghe mẹ em nói.
Những bụi tro màu trắng rời bàn tay cha mẹ Aki. Chúng theo làn gió bay đi khắp vùng hoang mạc đỏ. Mẹ Aki khóc. Cha Aki vòng tay qua vai bà, họ chậm rãi quay trở lại con đường đã đưa chúng tôi tới. Tôi không thể cử động. Thứ vừa bay đi kia như thể những mảnh vỡ của tôi, những mảnh vỡ không thể gom lại được nữa.
“Ta đi chứ?” người hướng dẫn giục giã. “Trời tối ngay bây giờ đấy. Đêm hoang mạc rất khắc nghiệt.”
Phần 04
Khi tôi từ Úc trở về, trời đã bắt đầu sang xuân. Khi kỳ thi cuối khóa kết thúc, lớp học chỉ còn như những trận bóng chày biết trước nhà vô địch. Tôi bắt đầu có thói quen nhìn lên trời nhiều lần lúc đang trên đường đến trường hay về nhà và giữa các tiết học tẻ nhạt. Đôi khi tôi nhìn lên đó rất lâu, bần thần tự hỏi liệu em có ở nơi ấy. Trong tất cả những tia nắng còn sót lại của mùa đông giá lạnh và những tia nắng mềm mại của mùa xuân, trong mọi thứ tới từ bầu trời, tôi đều cảm thấy sự hiện diện của Aki. Thỉnh thoảng, giữa lúc nhìn ngắm bầu trời, có những đám mây không biết từ đâu trôi ngang qua đầu tôi. Mỗi lần mây bay qua, tôi lại thấy tiết trời như khác đi một chút.
Vào một ngày Chủ nhật ấm áp giữa tháng Ba, tôi nhờ Oki đưa ra đảo. Khi tôi giải thích lý do mình muốn đi, Oki nhiệt tình đồng ý. Sau khi buộc dây vào cầu tàu, tôi đi dọc bãi biển một mình. Oki bảo đợi tôi trên cầu tàu. Bờ biển tháng ba, nước trong và mát lạnh. Ánh nắng dịu dàng làm ánh lên những ngọn sóng đang gột sạch đám đá cuộ bên bờ. Một con cua màu đá bò dọc chỗ nước cạn rồi lẩn xuống biển. Đám cỏ chân ngỗng tỏa những chiếc tua rực rỡ giữa những tảng đá, và lũ ốc xà cừ trắng phau bám chặt vào những hòn sỏi lớn hơn. Chẳng hiểu sao có vẻ như tôi chỉ để ý những thứ nhỏ nhặt.
Xa trên bãi cát, nơi sóng không chạm đến, hoa muống biển nở rộ. Ở phía trên, một chú bướm trắng đang bay lượn. Tôi vẫn nhớ đôi bướm phượng sau khách sạn dạo chúng tôi tới đây mùa hè trước. Những gì xảy ra đêm ấy lướt qua đầu tôi như những đốm sáng chói lòa. Mỗi kỷ niệm, dù là nhỏ nhất, đều thân thương và rực sáng, tựa như chưa bao giờ xảy ra.
Phía trên bờ biển một chút là con đê trải dài tới tận vách đá phía sau. Trên đó có một vị Địa Tạng Bồ tát bằng đá. Tôi tự hỏi liệu ai đã đặt ở đó và với mục đích gì. Phải chăng xưa kia đã có ai đó gặp nạn trên biển? Không có am miếu, bức tượng phơi mình giữa nắng gió. Tất nhiên ở đó không có đồ cúng lễ như hoa hay tiền xu. Gió mang hơi muối từ biển đã bào mòn mắt và miệng của Địa Tạng. Tất cả những gì còn sót lại là phần sống mũi nhô lên lờ mờ giữa khuôn mặt. Những đường nét đã mờ đi của mắt mũi trên khuôn mặt, ngược lại, khiến cho bức tượng trông có vẻ đôn hậu.
Tôi ngồi xuống nền sỏi khô ráo cạnh bức tượng và nhìn ra mặt biển hiền hòa. Trên cái dải màu xanh giống như một vệt bút lông đưa ngang, muôn vàn tia sáng đang nhảy nhót. Màu xanh trên mũi đất nhô ra biển từ bên trái đang tắm mình trong nắng, tới độ tôi dường như có thể nhìn rõ từng cành thông dưới đó. Quá đẹp để ngắm nhìn một mình. Tôi ước gì Aki đang ở đây với tôi. Tôi có cảm giác như mình đang sống với những mong ước không bao giờ thành hiện thực.
Tôi khẽ gọi tên em. Hơn bất kỳ ai trong cái thế giới rộng lớn này, đôi môi của tôi được sinh ra chỉ để dành gọi tên em. Nhưng phải mất một lúc tôi mới hình dung ra khuôn mặt em. Và hình như khoảng thời gian ấy cứ ngày càng dài hơn. Rất có thể sẽ tới lúc nhớ lại khuôn mặt em cũng sẽ chẳng khác nào tìm một bức ảnh trong quyển album cũ. Tôi cảm thấy một nỗi bất an. Liệu ký ức về Aki có bị xói mòn trong tâm trí tôi giống như bức tượng Địa Tạng bên biển kia? Và liệu thứ còn lại sau cùng chỉ là tên em? Cái tên tôi luôn nhầm tưởng là mùa thu?
Tôi nằm xuống nền sỏi và nhắm mắt lại. Mí mắt tôi ửng đỏ như lúc chúng tôi đi bơi mùa hè trước. Thật lạ khi nghĩ rằng dòng máu lúc ấy vẫn đang chảy trong tôi lúc này.
Hình như tôi đã ngủ quên. Điều tiếp theo tôi biết là có người gọi tôi. Mở mắt ra, tôi thấy Oki đang cúi sát xuống nhìn mình với vẻ ngạc nhiên.
“Chuyện gì vậy?” tôi ngồi dậy hỏi.
“Tớ mới là người phải hỏi câu đấy,” cậu ta nói. “Chờ mãi chẳng thấy cậu quay lại, tớ lo lắng quá nên đi tìm.”
Oki ngồi xuống cạnh tôi. Chúng tôi lặng lẽ nhìn ra biển. Gió từ ngoài khơi thổi vào nồng mùi muối. Nhìn lên không trung, tôi thấy mặt trời đã vòng qua mũi đất bên trái và gần như ở ngay trên mặt biển phía trước.
“Tớ luôn cảm thấy cô ấy ở bên,” tôi nói. “Ở đây, ở kia…, ở khắp mọi nơi tớ đến. Cậu có nghĩ đấy là ảo giác?”
“Ừm… Biết nói thế nào nhỉ?” Oki nói lúng bùng trong miệng.
“Chắc chắn người ngoài sẽ cho đó là ảo giác.”
Chúng tôi im lặng, tiếp tục nhìn ra biển. Oki nhặt một hòn sỏi lên, ném về phía biển. Cậu ta làm thế vài lần.
“Cậu đã bao giờ mơ thấy mình đang bay chưa?” tôi hỏi.
Cậu ta quay sang tôi với vẻ mặt như không hiểu tôi đang nói gì. “Ý cậu là bay bằng máy bay hay cái gì tương tự?”
“Không, cậu tự bay cơ, giống như siêu nhân ấy.”
“Chừng nào là mơ,” cậu ta cười, “cậu mơ gì cũng được. Đấy là việc của cậu.”
“Ừ, nhưng cậu chưa bao giờ mơ thế à? Những giấc mơ không thể thành hiện thực ấy?”
“Tớ thì không.”
Cậu ta lại nhặt một hòn sỏi khác, ném về phía biển. Viên sỏi gây ra một âm thanh đanh gọn rồi nảy trên mép nước trước khi chìm xuống.
“Thế cậu muốn nói gì về việc mơ thấy mình đang bay?” Cuối cùng thì cậu ta cũng tỏ vẻ sốt ruột muốn nghe.
“Cậu không thể làm thế trong đời thực, đúng không?” Tôi tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở. “Về mặt logic mà nói, nó không thể xảy ra, đúng không?”
“Đúng.” Cậu ta cảnh giác gật đầu.
“Cậu có thể bay trong mơ. Đó là điều không xảy ra ngoài hiện thực. Mặc dầu vậy khi mơ, cậu không nhận ra sự phi lý. Cậu không vừa bay vừa nghĩ, ồ, nó thật trái logic. Mà giả sử cậu có nhận ra thì cậu vẫn cứ bay. Cậu nhìn xuống thị trấn và thực sự cảm thấy mình đang bay. Vì thế nó không phải là ảo giác.”
“Ừ, nhưng đó là mơ,” Oki cắt ngang lời tôi.
“Đúng, là mơ,” tôi thản nhiên thừa nhận.
“Ý cậu là gì?”
“Aki chết rồi. Cơ thể cô ấy bị thiêu thành tro bụi. Tớ đã rắc tro ấy trên sa mạc, bằng chính đôi tay mình. Nhưng cô ấy vẫn ở đây. Tớ chẳng thể nào nghĩ khác được rằng cô ấy vẫn ở đây. Đấy không phải là ảo giác. Không thể nào là ảo giác. Tớ không thể phủ nhận việc cô ấy đang ở đây cũng giống như không thể phủ nhận rằng tớ đang bay trong mơ. Ngay cả khi tớ không thể chứng minh thì cảm giác cô ấy đang ở quanh đây vẫn là một sự thật.”
Khi tôi ngừng lời, Oki nhìn tôi thương hại.
“Tớ đang mơ sao?”
Trong lúc quay lại cầu tàu, tôi nhìn thấy một viên sỏi lấp lánh ở mép nước. Tôi nhặt lên, hóa ra đó không phải một viên sỏi mà là một mảnh thủy tinh bị sóng mài mòn đến độ nhẵn thín. Trong làn nước, mảnh thủy tinh trông như một viên ngọc xanh. Tôi đút nó vào túi áo choàng.
“Cậu không muốn đến khách sạn đó à?” Oki hỏi khi gần đến cầu tàu. “Nó làm cậu nhớ, đúng không?”
Trong một giây, ngực tôi như đông cứng lại. Thay vì trả lời, tôi hắt ra một tiếng thở dài. Oki không nói gì nữa.
Tôi lấy chiếc lọ thủy tinh trong suốt từ túi áo ra. Bên trong đó là một thứ trắng mịn như cát.
“Tro của Aki đấy.”
“Cậu định rắc ở đây?” Oki lo lắng hỏi.
“Tớ chưa biết.”
Tôi định rắc tro của Aki xuống biển trước khi vào tới đảo. Đấy chính là lý do tôi nhờ Oki đưa đến đây.
“Tớ thấy hơi tiếc. Mặc dù mang theo mãi bên mình cũng chẳng ích gì.”
“Cứ giữ lấy nếu cậu không chắc,” Oki nói với vẻ tốt bụng. “Lỡ cậu cảm thấy hối hận sau khi rắc nó thì sao? Chừng nào biết chắc cảm giác của mình rồi thì hẵng làm. Tớ sẽ đưa cậu đến đây bất cứ khi nào cậu muốn.”
Thủy triều đang rút. Con thuyền hạ xuống thấp hơn cả rầm tàu. Biển lặng và xanh thẫm đến nao lòng.
“Cậu đã nghe Hirose hát chưa?” Một lát sau Oki đột nhiên hỏi. “Cậu còn nhớ hồi cấp hai chúng mình thường có bài kiểm tra trong giờ học nhạc không? Họ bắt chúng mình hát toàn những bài chết tiệt. Có lần Hirose phải hát, giọng cô ấy nhỏ đến mức cậu không nghe thấy được gì. Tớ ở ngay hàng đầu mà còn không đoán được đấy là bài gì.”
“Một lần, đang giữa chừng thì có người hét lên, ‘Tớ không nghe thấy gì!’, đúng không?”
“Đúng, đúng. Thế rồi giọng cô ấy càng nhỏ hơn và mặt cô ấy đỏ dừ đến mức đáng thương. Suốt đoạn còn lại cô ấy chỉ nhìn xuống đất.”
“Cậu nhớ ghê nhỉ?”
“Hả? Không, không, không phải như thế.” Oki bối rối. “Tớ không thích cô ấy. À mà thích thì có thích, nhưng không giống kiểu của cậu.”
Tôi cũng đang nghĩ đến giọng hát của Aki. Không phải trong giờ học nhạc mà trong cái đêm ở lại khách sạn. Khi ấy, hai chúng tôi đang sửa soạn bữa tối thì đột nhiên phát hiện ra thiếu một thứ. Tôi đi xuống tầng ba để lấy rồi quay lên thì thấy Aki đang khe khẽ hát trong lúc thái rau. Tôi dừng lại ở cửa bếp và lắng nghe. Giọng em nhỏ đến mức tôi không nghe ra giai điệu gì chứ đừng nói đến lời bài hát, nhưng Aki xem chừng rất vui khi hát. Nó làm tôi nghĩ rằng khi ở nhà, lúc nấu cơm, em cũng hát như thế này. Nếu tôi lên tiếng, em sẽ dừng lại. Thế nên tôi chỉ dừng ở cửa và tiếp tục lắng nghe.
“Thôi, tớ sẽ giữ lại.”
Tôi đút cái lọ vào túi và đứng lên.
“Thế à?” Oki gật đầu nói, trông nhẹ nhõm hẳn đi.
Tôi chạm phải vật gì lành lạnh trong túi. Hóa ra là mảnh thủy tinh tôi vừa nhặt được lúc nãy. Bề mặt nó đã chuyển màu trắng đục, có lẽ tại tiếp xúc với không khí. Trong nước thì đẹp và long lanh như ngọc bội thế mà giờ đây chỉ còn là mảnh thủy tinh không hơn không kém. Tôi ném mảnh vỡ về phía biển, thật dứt khoát. Nó vẽ lên nền trời một đường vòng cung tuyệt đẹp rồi rơi tõm xuống nước.
“Về thôi chứ, chàng trai phong tình?” Oki cất tiếng từ phía sau.
Chàng trai phong tình quay lại.
“Xin vâng lệnh ngài, thưa thuyền trưởng.”