Sáng hôm sau Hazel thức dậy sớm. Nàng không thể ngủ được, và nàng nghĩ nàng sẽ xuống thung lũng hái nấm mùa xuân.
Nàng rón rén ra khỏi nhà, vẫn còn vắng lặng tịnh không một tiếng động ngoài tiếng ngáy của bà Marston, tiếng ngáy không thật to nhưng có thể nghe thấy từ mọi ngóc ngách. Ngoài nghĩa địa, nơi chưa có con chim nào cất tiếng hót, dường như những người chết đã thức dậy trong quãng thời gian vắng vẻ giữa mười hai giờ đêm và hai giờ sáng, đang đợi một cách kín đáo và trang nghiêm, mỗi người trên chiếc giường riêng của mình, để đi ăn điểm tâm cùng lũ ong và lũ rắn nhỏ không có nọc độc trong những phòng ăn quá tinh vi và vĩnh cửu mà người sống không thể biết. Những tấm bia mộ dường như cao hơn, và mỗi bia mộ dường như lại có một hình hài hiển hiện ở phía sau; đầm cỏ rậm rạp màu xanh xám nặng trĩu sương mai, dường như một đám đông lặng lẽ vừa quét qua đó. Âm khí nặng nề xông lên, nơi đó khoác lên mình cái vẻ luộm thuộm của một cuộc chè chén hội hè nào đó trong quá khứ cùng cái vẻ mong chờ của một sân khấu đang chuẩn bị cho một vở kịch sắp diễn ra.
Cáo Nhỏ sủa dữ dội, trở nên hoạt náo trong thành trì của người chết, Hazel liền tới giải thích tại sao nó không thể đi cùng nàng được. Nàng nói chuyện với Cáo Nhỏ thật lâu bằng giọng thì thầm. Cáo Nhỏ thể hiện sự hùng hồn qua đôi mắt. Nó có một cá tính nổi bật. Sự đàng hoàng chưa bao giờ làm nó thất bại, và nó có thể vui nhộn, đáng yêu, làm ầm ĩ lên vì dỗi mà không mất đi tí tẹo nào phẩm cách. Nó làm chủ được bản thân mình; thế giới hoang dã là vương quốc của nó. Nếu ở trong cũi – biểu lộ của nó sẽ nói cho bạn biết – nó là kẻ ẩn dật và đó là sự lựa chọn của nó. Khi ngồi ở bàn của Edward, Hazel cũng có biểu lộ y hệt thế.
Khi cuộc trò chuyện kết thúc, và Cáo Nhỏ ngoan ngoãn nằm cuộn mình để ngủ bằng chuyển động mau lẹ tựa như một dòng thơ, Hazel đi xuống đồi. Nàng cảm thấy mình thật dũng cảm; đi xuống thung lũng là một bước tiến đầy can đảm. Nàng đã có một chiếc kẹp váy của bà Marston – chiếc kẹp váy màu vàng hình con bướm được làm cho phức tạp bởi vô số những cái móc – để túm gọn váy trong lúc nàng hái nấm. Nàng còn có chiếc túi nhỏ, chiếc túi mà Edward thường đựng Bữa Tối Của Chúa để mang đến một nhà thờ ở cách đó khá xa. Đối với nàng, những cây nấm cũng sạch như Bữa Tối Của Chúa, cũng bí ẩn chẳng kém, và cũng đáp ứng nhu cầu con người. Trong mắt nàng không gì có thể mầu nhiệm và linh thiêng hơn những cây nấm mịn như lụa có đường viền màu hồng mà trong đêm các thiên thần, hoặc đấng cao siêu hơn và nhiều quyền lực hơn mà chúng ta gọi là Chúa đã để lại trên những cánh đồng cho nàng.
Khi nàng đi xuống núi dường như cả vùng đều bị tuyết phủ trắng xóa. Làn sương mỏng, trắng toát trôi bồng bềnh trên bình nguyên phía xa xa, phủ khắp thung lũng, rồi đứng yên trên những đỉnh đồi. Những điểm cao nhất của Rừng Của Thợ Săn, Núi Nhỏ Của Chúa, và ngọn đồi phía sau Undern sừng sững hiện ra trong sắc xanh thẳm. Đám hồng dại mang những nụ hoa màu đỏ như san hô đùa với gió sớm trông thật tinh nghịch.
Hazel càng đi xuống thấp, sương mù càng dâng lên như một bức tường vây quanh nàng, ngăn cách nàng khỏi Undern và Núi Nhỏ. Trong những giờ vàng ngọc của buối sáng, nàng cảm thấy mình giống như một đứa trẻ lúc tan trường, không bị ai kiểm soát, hoàn toàn tự do. Khi xuống đến đồng cỏ, nàng túm váy lên quá gối, tháo giày tất ra, ghim tay áo lên tận vai. Nàng chạy như một nữ thần nhỏ nhắn và mảnh khảnh với đôi chân thon nhỏ và đôi cánh tay trắng ngần trong sương sớm. Nàng tìm tổ chim và cất tiếng gọi, “Cúc cu!” rồi nàng phát hiện ra một con chim non tự cao tự đại, chưa biết bay bằng cánh, nhưng tâm hồn đã sẵn sàng cho những điều sâu xa.
“Mày kiêu hãnh thế!” Hazel nói, “Mày phải ở vào vị trí của tao, ở cùng một bà già lờ đờ cứ trễ môi trước bất cứ việc gì tao làm, và một người đàn ông…” Nàng ngừng nói. Nàng thậm chí không thể kể cho một con chim nghe về Reddin. Nàng nhảy nhót giữa đám cúc, hoang dại như một nàng tiên, và khi mặt trời lên cái bóng của nàng giễu nhại bằng sự hài hước tinh vi. Trong tay nàng, và trong bàn tay của cái bóng, lúc la lúc lắc chiếc túi màu đen dùng để đựng Bữa Tối Của Chúa.
Không để ý tới phương hướng, nàng cứ nhảy mãi, nhảy mãi. Cuối cùng nàng phát hiện ra một bãi cỏ, nơi lũ ngựa của các trang trại ngoái đầu lại nhìn nàng và một con ngựa con có đôi mắt buồn rười rượi đứng dậy đón chào nàng. Ở đó nàng tìm thấy nhiều nấm mỡ như nàng mong muốn. Đám cây già đứng thành hàng rào phía trên cánh đồng nói với nàng bằng giọng thơm tho. Vẻ đẹp lộng lẫy của táo gai đã nhường chỗ cho sắc màu của hoa hồng dại. Nàng đưa tay hái vài bông hoa, và tóc nàng xổ tung; nàng đã sáng suốt bỏ mấy chiếc ghim vào túi để dùng cho lúc quay về. Nàng cực kỳ hạnh phúc, như một con cá được thả về với nước. Bởi vì những thứ này, không phải là sự an nhàn trong nỗi sợ Chúa ở Núi Nhỏ, cũng không phải nét oai nghiêm đã tàn phai của Undern, mới đích thực là cuộc sống của nàng. Nàng có quan hệ họ hàng với cây cối, có mối đồng cảm bản năng với hoa lá sâu sắc đến mức dường như máu trong người nàng không phải là dòng máu chảy chậm của con người, mà là nhựa cây dễ bốc hơi. Nàng thuộc một chủng tộc sẽ xuất hiện trong tương lai xa, khi tất cả chúng ta phát triển vượt ra ngoài cái tôi của mình – cái tôi ngu si của một đứa bé dùng tay giật đứt cánh bướm. Chúng ta sẽ đạt được sự vô tư về mặt triết học và sự đồng cảm về mặt cảm xúc. Thậm chí ở thời điểm này chúng ta cũng đã bỏ xa cái thời khi mà những thiên tài xuất chúng như Shakespeare có lẽ cũng rất lúng túng trong cách hiểu cuộc sống của loài khác ngoài cuộc sống của loài người. Chúng ta đã bỏ lại phía sau những thế kỷ khát máu khi mà việc giết chóc là môn thể thao duy nhất, và chúng ta cũng đã tiến đến những thời đại đáng kính hơn chút ít khi những kẻ thích tàn sát ý thức được rằng cần có nỗ lực rõ rệt để duy trì “những môn thể thao lâu đời và tốt đẹp của người Anh”. Những điều tốt đẹp hơn đã được lưu giữ cho chúng ta. Thậm chí ngày nay, mặc dù những cuốn sách đắt đỏ nhất và hào nhoáng nhất trong các hiệu sách là những cuốn nói về việc giết chóc, nhưng chẳng ai thèm đọc chúng. Chúng được mua vào dịp Giáng sinh cho những người bà con nghèo túng và những đứa bé trai.
Hazel trên cánh đồng và ở trong rừng, thích thú với cảnh vật xung quanh, lang thang mê mải trong niềm phởn phơ bí ẩn.
Reddin khi ở trên cánh đồng và ở trong rừng lại chỉ thích thú với bản thân mình. Bởi dù đi bất cứ đâu gã cũng mang theo bầu không khí của riêng gã, và gã đặt chân đến đâu là y như rằng ở chỗ đó sự yếu ớt chạy trốn và cái đẹp thu mình lại.
Bầu trời nhuốm một màu hồng, mỏng manh và rực rỡ hơn cả hoa hồng dại, và tan ra trong những hồ nước xanh hơn, nhợt nhạt hơn cả đường gân của lá sồi non. Những giậu cây thật cao, thật đẹp, dòng suối trong xanh trôi thật xa, xa mãi vào bí ẩn, cứ như thể dường như bất cứ lúc nào Chúa cũng có thể xuất hiện ở đó, như ở trong một khu vườn, trong hình hài nhỏ bé của một con sâu bướm. Bên dòng suối Hazel phát hiện ra đám mã đề nước cao nghều vươn lên khỏi bùn như những cây đền nến, và đám lưu ly lá sần bé nhỏ ngắm bóng của chính mình in dưới nước với vẻ âu yếm. Nàng nhìn lũ chim đang tắm – sẻ ức đỏ với bộ lông mượt mà; chim hồng tước; chim hoét; chim két mỏ vàng thô kệch. Chúng in những dấu chân nhỏ xíu trên mặt bùn xốp, uống nước, tắm, rỉa lông, rồi lại lưu lại những vết chân khác. Sau đó chúng “cất cánh”, như Hazel miêu tả, từ những mỏm đất và bay xuống những đồng cỏ được tạo hóa tô màu hoặc bay lên những tán cây được tạo hóa tráng men, và thổi kèn thổi sáo cho tới khi không khí đầy ắp bạc.
Hazel đứng theo cái cách mà có lẽ Eva đã đứng, với đôi bàn tay đan vào nhau, đôi mắt đong đầy sự đê mê, hoàn toàn quên mất bản thân mình mà say sưa chìm đắm với những món đồ chơi sống động đó.
“Ôi, mày là một con chim đích thực!” nàng thốt lên, khi một con chim cúc cu to có bộ lông óng mượt đậu xuống bùn cất tiếng kêu “gộp gộp”, uống nước với vẻ đĩnh đạc, rồi thực hiện một cú chao liệng tới cây tần bì ở đằng xa. “Cáo Nhỏ phải được thấy cảnh này mới phải,” nàng nói thêm.
Bầy chim te te mào sáng bạc bay vòng vòng, cất lên những tiếng kêu sầu thảm, và một con gà lôi màu hung đang dẫn đàn con đi vơ vẩn. Sương đã sớm tan, và cánh đồng không còn phủ sắc bạc của mạng nhện nữa mà tràn ngập một màu xanh lơ của những bông thủy cự - mỗi bông lại được sơn một màu đậm hơn, với con mắt trên những nhụy hoa mỏng manh – thế giới của những hoạt động thầm lặng đầy tình thân ái. Mỗi cụm hoa có cả một gia đình nụ trông tựa những viên đá quý màu xanh điểm chấm trắng, mỗi viên cuộn chặt sự bí ẩn của mình trong lòng. Ngắm cả một cánh đồng hoa không chỉ rực rỡ mà còn tràn ngập sắc màu như thể cũng giống như ngắm mười nghìn vị thánh đang nhập định, mười nghìn đứa trẻ đang nhảy múa. Hazel chẳng biết gì về các vị thánh. Nàng không có từ ngữ để diễn tả sự kinh ngạc mà nàng đang trải nghiệm. Nhưng nàng cảm nhận được nó, nàng tận hưởng nó với niềm say sưa mà không lời nào có thể diễn tả nỗi.
Bà Marston đã từng nói không chỉ một lần, “Mẹ sợ rằng Hazel là người lãng phí thời gian.” Nhưng thế nào là lãng phí thời gian nhỉ? Ăn và ngủ; nghe một cách trang nghiêm những cuốn sách mà chúng ta đã nghe cả trăm lần rồi; xúm xít quanh Chúa (người mà chúng ta tưởng rằng có đôi tai vĩ đại) để cầu lợi ích vật chất; cầu sự giàu sang – tất cả những việc đó thì thế giới nói là không lãng phí thời gian. Ôi, thế giới với đôi mắt lờ mờ, đôi tay nặng nề bẩn thỉu, khi nào thì mi mới được gột rửa và trở nên sạch sẽ đây?
Hazel đi đến một chỗ có đoạn suối nông lấp lánh dòng nước bạc cắt ngang đường. Nàng dừng lại, đứng dựa vào cây cầu gỗ, lắng nghe những viên sỏi cọ vào nhau; nhìn những tia sáng lấp lánh như hồng ngọc, xaphia, lục bảo lóe lên dưới ánh mặt trời; hít vào lồng ngực mùi của nước chảy, mùi hương quyến rũ hơn tất thảy (chỉ sau mùi của không khí trên núi hoang, hay mùi của tuyết). Nàng nhìn đám chim chìa vôi màu xám, con nào con nấy trông vóc dáng thật gọn gàng, nhưng điệu bộ lại hoang dã, đang nhảy nhót trên mặt sỏi ẩm ướt như mấy thầy giáo đầy hứng khởi lớp giáo lý. Thế rồi, trong đám lá của cây thủy liễu khổng lồ buông rủ xuống suối, một con chim đầu đen bắt đầu cất tiếng hót. Đối với nàng tiếng láy rền và âm thanh dâng trào của giai điệu tuyệt vời, những đoạn lặp lại đầy quyến rũ, những nốt thăng lâng lâng và những nốt trầm bâng khuâng buông xuống một cách nhẹ nhàng như một bông hoa, dường như tuyệt vời chẳng kém gì khúc hát của một thiên thần. Nàng và con chim đầu đen ở trong bóng lá của cây thủy liễu, sống những phút giây tuyệt vời của sự sáng tạo và lĩnh hội cho tới khi bất thình lình có tiếng vó ngựa vọng tới, bài ca bị ngắt, cây thủy liễu xua những kẻ trú ngụ đi, và con ngựa của Reddin phóng qua suối làm nước bắn tung tóe.
“Ôi!” Hazel kêu lên. “Tại sao ông lại phá vỡ bài hát? Đó là một con chim thiêng. Giờ thì nó bay mất rồi!”
Gã đang cưỡi ngựa đi quanh cái mẩu thừa của lãnh địa nhà gã, một đồi cỏ nuôi cừu nhìn lên Núi Nhỏ và nhìn xuống thung lũng. Gã phát hiện thấy Hazel đi lang thang ở phía dưới, nhìn thấy đôi tay, đôi chân trắng ngần và mái tóc hung của nàng. Gã nghĩ chắc mắt gã có vấn đề. Đôi chân trần! Đôi cánh tay trần! Mái tóc xõa, không có mũ! Là một điền chủ, gã rất sửng sốt trước những gì gã thấy. Là một người đàn ông, gã vội thúc ngựa xuống đồi nhanh đến độ có thể ngã đau.
Không giống như những người đàn bà của thế giới văn minh, những người luôn bận rộn với gương lược, Hazel dễ dàng quên bản thân mình cũng như vẻ bề ngoài của mình. Giờ đây nàng đang ở trong tình trạng đó. Nhưng có gì đó từ vẻ mặt của Reddin đã nhắc nhở nàng. Nàng vội vã tháo chiếc kẹp váy, vội vã đi tất và giày vào.
“Bài hát gì cơ?” Reddin hỏi.
“Một con chim trên cây. Tại sao ông lại làm nó sợ?”
Reddin cảm thấy bực mình. Nhìn thấy Hazel đi lang thang gần lãnh địa của mình, gã đinh ninh rằng nàng lảng vảng ở đây với hy vọng được gặp gã. Gã cũng đã nghĩ rằng cái kiểu kẹp váy lạ lùng của nàng là nhằm quyến rũ gã.
Đối với sự trong trắng tất cả mọi thứ đều trong trắng.
“Nhưng chắc hẳn em muốn gặp tôi chứ? Chẳng phải đó là lý do em đến đây sao?” gã hỏi.
“Không, không phải tôi muốn gặp ông đâu. Tôi đi hái những cây nấm mọc lên sau mưa, bởi vì chẳng có gì giống như mấy cây nấm mùa xuân ấy cả. Và tôi đến để ngắm hoa, để nghe chim hót và để xem những tổ chim.”
“Ở Undern có đầy hoa cỏ chim chóc dành cho em.”
“Ở Núi Nhỏ có thừa những thứ ấy.”
“Vậy tại sao em lại đến đây?”
“Hãy để tôi yên.”
“Em lạnh nhạt với tôi!” Gã mỉm cười. Gã thích sự cưỡng lại. “Nhưng hãy nghe này, Hazel,” gã dỗ dành. “Nếu em đến Undern, tôi sẽ làm cho cuộc sống của em trở nên thú vị.”
“Nhưng tôi không muốn. Tôi là vợ của Ed’ard.”
“Là vợ!” Mấy từ đó khiến khuôn mặt phong sương của gã đỏ bừng bừng. Mấy từ đó làm gã cảm thấy mình như bị trúng độc.
Gã nhảy xuống ngựa, hôn nàng.
“Tôi không muốn làm vợ của ai hết!” nàng kêu lên bằng giọng bực tức. “Không muốn làm vợ của ông cũng chẳng muốn làm vợ của Ed’ard! Nhưng tôi là vợ của Ed’ard, và tôi phải giữ bổn phận.” Nàng quay đi.
“Chào ông,” nàng nói theo kiểu xã giao. Nàng khó nhọc bước lên đường. Reddin nhìn nàng bước đi, mỏng manh, khổ sở, tay khoác chiếc túi đen trông đầy mệt mỏi. Reddin rất tức giận và thất vọng. Thế là ông chủ của Undern đã bị từ chối lần thứ hai.
“Hừm,” gã nói, dõi mắt nhìn nàng bước đi, “lần tới sẽ không còn là đề nghị nữa đâu, quý cô ạ! Lần tới em sẽ không có cơ hội để từ chối đâu.”
Gã quay về nhà, mang theo tâm trạng thất vọng – ý thức về sự hèn hạ của chính mình. Gã không thể không nhận thức được rằng dùng vũ lực để đối xử với cái yếu là điều hèn hạ nhất trên trái đất này.