Hoàng Tử Hà lặng lẽ ngẩng đầu nhìn vòm trời bị tán đại thụ che khất, sau lớp lá ken dày, vẫn lấp ló đâu đó sắc lam thăm thẳm, thở hắt ra, lẩm bẩm: “Ra là thế…”
Chu Tử Tần ngồi trên ngựa vội ghé sát người lại hỏi gặng: “Gì cơ gì cơ? Ra thế cái gì?”
Hoàng Tử Hà quay sang bảo gã: “Thay mận đổi đào, cũng có thể gọi là ve sầu lột xác. Chúng ta sắp đến Thanh Khê, có thể chứng thực vài điều rồi.”
“Thực ra cũng không phải lập thi xã chính thức gì. Chỉ la mấy người ở Thành Đô hay tụ họp cùng nhau, thỉnh thoảng nổi hứng lôi bạn kéo bè đến mở hội thơ, lâu lâu gặp gỡ, hằng tháng hẹn ở vườn Tình lấy thơ kết bạn, bàn luận đàm đạo, cũng không có ngày cố đinh…”
Các thành viên thi xã tụ tập bên bờ Thanh Khê thấy Chu thiểu bổ đầu đích thân tới thăm hỏi đều lộ vẻ sợ sệt và bất an. Người mào đầu thi xã, một kẻ sĩ tên gọi Trần Luân Vân thì thào hỏi những người khác: “Có phải mấy bài thơ chúng ta làm lúc du ngoạn miếu Thần Nữ năm nay quá vô lễ, nên… bị thần linh giáng tội, chẳng bao lâu đã chết mất hai người không…”
“Có nhẽ đâu thế? Nếu nói là vô lễ thì không đến lượt Ôn Dương đâu. Xưa nay chẳng phải ôn huynh không bàn đến ái tình ư! Thậm chí lúc chúng ta bình thẩm tượng Thần Nữ, Ôn huynh chỉ mải miết nghiên cứu đề thi trên tường, không hề hùa theo.”
Cả đám đang lao xao, đã bị Chu Tử Tần chen ngang: “Nhưn ta nghe nói Ôn Dương thường lui tới đường hoa ngõ liễu, có thể thấy vẫn thích gái đẹp.”
“Thế ư? Chuyện… chuyện này, chúng tôi chưa từng nghe nói.” Trần Luân Vân hỏi người bên cạnh: “Huống hồ Ôn Dương bản tính lạnh lùng lại tự vẫn cùng một nhạc kỹ, khiến chúng tôi vô cùng sửng sốt. Lẽ nào Ôn huynh lại là hạng đa tình cố chấp thế ư?”
“Nói là đa tình cố chấp, nghĩ thế nào cũng lạ nhỉ? Cha mẹ Ôn huynh đã tạ thế, họ hàng gần chẳng còn ai, thậm chí vợ cũng qua đời rồi, dù Ôn huynh lấy một nhạc kỹ cũng chẳng ai ngăn cản, sao phải tự vẫn?”
Có người lại nói: “Năm ngoái Hà Đại chẳng phải cũng tục huyền với nhạc kỹ Liễu Thư Nhi đấy ư? Sau khi Liễu Thư Nhi xé giấy hoàng lương, mọi người chỉ thích kéo đến nhà họ hà, vì vợ Hà huynh vừa dí dỏm lại phóng khoáng, ngón gì cũng chiều, thỉnh thoảng còn cải trang làm nam nhi cùng chúntg ta ra ngoài du ngoạn, ai cũng phải khen là vợ tốt, ngấm ngầm ngưỡng mộ Hà huynh. Lẽ nào lại chê bai Ôn huynh lấy mộ cô gái xuất thân ca múa?”
“Huống hồ nếu là Tề Đằng, không chừng còn phải cân nhắc xem cưới một nhạc kỹ có ảnh hưởng gì tới bước đường làm quan, tổn hại thanh danh hay không. Chứ Ôn Dương xưa nay không thích ra làm quan, thì con lỗ nỗi gì?”
Hoàng Tử Tà im lặng lắng nghe họ bàn tán, đến giờ mới hỏi: “Quan hệ giữa Tề Đằng và Ôn Dương thế nào?”
Trần Luân Vân đáp: “Vì Tề Đằng tên chữ là Hàm Việt, tính tình tiêu sái lại ôn hòa, nên chúng tôi đặt cho biệt danh là Hàn Nguyệt côngg tử, vừa khéo hợp thành mộ đôi với Ôn Dương, thường lôi cả hai ra trêu chọc. Song Tề Đằng thích náo nhiệt còn Ôn Dương ưa tĩnh, đôi bên hình như không thân thiết gì, chỉ gật đầu chào hỏi xã giao thôi.”
Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Vậy những ai thường qua lại với Tề Đằng và Ôn Dương?”
Hai ba người đồng thanh đáp ngay: “Vũ Tuyên.”
Hoàng Tử Hà gật đầu làm thinh.
Chu Tử Tần vẫn chưa hiểu ra, ngạc nhiên hỏi lại: “Các vị muốn nói Vũ Tuyên qua lại với ai trong hai người kia?”
“Qua lại với cả hai!” Họ khẳng định.
Thấy Chu Tử Tần vẫn chưa tin, Trần Luân Vân bèn giải thích: “Ôn Dương ưa tĩnh, thích thư pháp, mà Vũ Tuyên lại là danh gia thư pháp ở Thành Đô, nên Ôn huynh thường mượn cớ tiếp cận, tìm đủ cách để kết thân. Các vị có nhớ chuyện bức thủ bút của Chung Hội lần trước không? Có phải từ đó họ bắt đầu trở mặt không nhỉ?”
“Đúng đúng, chuyện này tôi nhớ!” Một người trẻ tuổi đáp ngay, “Là mùa thu năm ngoái, bấy giờ Ôn Dương khoe mình mới tìm được một bức thư tay của Chung Hội, mời Vũ Tuyên đến bình phẩm. Vũ Tuyên vui vẻ đi, nhưng sau khi trở về thì không thèm nhìn mặt Ôn Dương nữa, người khác có hỏi đến cũng không buồn nhắc tên. Tôi từng hò hỏi Vũ huynh thấy bức thủ bút ấy thế nào, có phải đồ thật hay không.”
Chu Tử Tần hỏi dồn: “Vũ Tuyên bảo sao?”
“Bấy giờ thái độ Vũ huynh rất lạ, các vị không mấy thân thiết nên không biết chứ, Vũ Tuyên là người xuất sắc nhất thi xã chúng tôi, thần thái cử chỉ phong nhãn thoát tục, không ai sánh kịp. Tôi quen Vũ Tuyên mấy năm nay, chưa từng thấy Vũ huynh nổi giận bao giờ. Thế mà hôm ấy mặt Vũ huynh lạnh băng, giọng điệu cũng rất hờ hững nới, bức thư viết tháng Mười hai năm Gia Bình thứ nhất, Chung Hội tự xưng là thượng thư Lang, sao có thể là thật được.”
Trần Luân Vân gật đầu: “Đúng thế, thoạt đầu chúng tôi cũng không hiêu, về giở sách ra mới biết, thì ra năm Gia Bình thứ nhất, Chung Hội đã chuyển sang làm trung thư thị lang rồi, Vũ huynh chỉ nhìn qua đã biết là đồ giả.”
Chu Tử Tần phản bác: “Dù là đồ giả, cũng chỉ có Ôn Dương bị lừa mua mà thôi, sao lại xích mích?”
“Đúng vậy, nhưng từ đó trở đi, Vũ Tuyên không qua lại gì với Ôn Dương nữa, khi gặp nhau ở thi xã, Ôn Dương vẫn vồn vã niềm nở song Vũ Tuyên đều tránh xa ba bước, thậm chí vì thế mà bỏ cả mấy kỳ không đến.”
Hoàng Tử Hà nhìn sang Chu Tử Tần, thấy gã vẫn chưa hiểu bèn chuyển chủ đề: “Quan hệ giữa Tề Đằng và Vũ Tuyên thì sao?”
Trần Luân Vân đáp: “Chuyện này tôi biết rõ hơn. Trước đây họ cũng chỉ xã giao thôi, nhưng từ sau lần Vũ Tuyên tự sát không thành, họ lại đâm thân thiết, thậm chí có thời gian còn qua lại thường xuyên.”
Hoàng Tử Hà trước đây từng nghe Vũ Tuyên nhắc đến chuyện này, nhưng không nói rõ. Giờ Trần Luân Vân lại kể ra, cô chợt thấy tim đập rộn lên, buột miệng hỏi: “Tự sát không thành ư?”
“Đúng thế, là sau khi nhà Hoàng quận thú xảy ra chuyện, Hoàng tiểu thư bỏ trốn. Người Thành Đô ai ai cũng biết Hoàng tiểu thư thân thiết với Vũ Tuyên, song chẳng ai nhờ gia đình Hoàng quận thú vừa xảy ra chuyện, Vũ Tuyên lại đứng ra tố cáo Hoàng tiểu thư; cũng chẳng ai nghĩ, sau khi Hoàng tiểu thư bỏ trốn, không rõ tung tích, Vũ Tuyên lại tự vẫn ngay trước mộ Hoàng quận thú vào đúng ngày đưa tang. Cũng không ai nghĩ, kẻ cứu Vũ Tuyen lại là Tề Đằng, hằng ngày chẳng có qua lại gì.” Trần Luân Vân thở dài, “Chuyện này chỉ mấy người trong thi xã biết thôi, vì Vũ Tuyên và Tề Đằng đều là bạn, nên mấy người chúng tôi tuy biết, cũng chẳng nói ra.”
Hoàng Tử Hà thấy ngực đau âm ỉ, thẫn thờ dựa vào lưng ghế, im lặng.
“Vũ Tuyên nằm liệt giường, hôn mê mấy ngày mới tỉnh lại, chẳng biết có phải tổn thương chỗ nào không, ma… các vị có thấy tính tình Vũ huynh thay đổi hẳn không?”
Nghe những người khác nói vậy, Trần Luân Vân gật đầu: “Đúng đúng, Vũ huynh vốn là người tiêu sái thoát tục, song sau biến cố ấy lại trở nên ngơ ngẩn, dường như chẳng để tâm đến bất cứ thứ gì, lại dường như dè chừng tất cả mọi người. Hơn nữa còn nói trước quên sau, chuyện hôm trước nói với chúng tôi, hôm sau đã quên bẵng…”
“Mỗi khi chúng tôi lỡ lời nhắc gì đó về phủ quận thú, Vũ huynh lại đau đầu, thoạt tiên tôi ngỡ huynh ấy đau đớn về cái chết của Hoàng quận thú, nào ngờ đau đến nỗi toàn thân vã mồ hôi lạnh, cả người mềm nhũn, suýt nữa mất mạng, nên chúng tôi… trước mặt Vũ huynh phải hết sức cẩn trọng lời nói, chỉ e động đến chuyện đau lòng của huynh ấy.” Mấy người khác cũng xôn xao phụ họa, tỏ vẻ nghi hoặc.
“Thực ra cũng có loại bệnh như thế đấy. Ví như sai khi bị tổn thương quá lớn, hễ nhắc lại một vài chuyện gì đó, cảm thấy không thể chịu đựng nổi, cơ thể sẽ vô thức phản kháng, tạo thành phản ứng mạnh như vậy.” Chu Tử Tần chen vào phân tích rành lạch đâu ra đấy: “Còn một khả năng nữa, là trong lúc Vũ Tuyên tự sát, sợi dây nào đó trong cơ thể bị tổn thương, từ ấy sinh ra thay đổi tâm tính cũng nên, ví như một chuyện năm xưa ta đọc được trong sách cổ…”
Mọi người xúm lại cùng Chu Tử Tần nghiên cứu đủ lời đồn đại cùng các vị tính tình thay đổi sau khi chết đi sống lại hoặc gặp tổn thương lớn, Hoàng Tử Hà ngòi bên lắng nghe hồi lâu, cũng chẳng thu được gì có ích, cứ vào tai này lại trôi sang tai kia, đành ngồi yên trên ghế, thầm rà soát lại những manh mối liên quan trong vụ án này.
Thấy mọi người cũng chẳng còn gì đề nói, ngượng ngập ngồi đó, Chu Tử Tần bèn kết thúc câu chuyện: “Đa tạ các vị giải đáp nghi vẫn giùm ta, hôm nay ta phải đi trước, ngày sau các vị tụ hội nhớ báo cho ta một tiếng, ta sẽ tời hầu phong nhã.”
“Ôi thiếu bổ đầu từ Trường An đến đây, lời lẽ dí dỏm, kiến thức bất phàm, chịu ghé măt xanh tới đám quê mùa thô kệch húng tôi là vinh hạnh lắm rồi!” “Vâng vâng, được thiếu bổ đầu nể mặt như thế, đúng là phúc nhận của chúng tôi!” Chu Tử Tần lại một lần nữa phát huy năng khiếu kết bạn khắp thiên hạ, sau một phen chuyện gẫu trên trời dưới bể, đã trở thành bạn thân của tất cả mọi người trong thi xã.
Mấy người tiễn gã đến tận lối vào Thanh Khê, quyến luyến không rời.
Thanh Khê vốn là một thung lũng rộng lớn, xung quanh toàn thông, một dòng suối trong vắt từ cua thung lũng đổ vào bị thế nui chia thành ba bốn nhánh suối con, rồi tụ lại ở cuối thung lũng, cuồn cuộn chảy tiếp.
Họ cưỡi ngựa men theo dòng nước ra khỏi thung lũng, chợt phát hiện có một người đang lặng lẽ đi trên bờ bên kia.
Chính là Vũ Tuyên. Nghe tiếng vó ngựa, hắn quay đầu nhin sang. Cách con suối chảy xiết, một mình hắn đứng dưới bóng râm trong rừng, mặc cho hơi nước thổi tung vạt áo, lặng lẽ nhìn cô.
Hoàng Tử Hà thoáng lưỡng lự, thấy Chu Tử Tần đằng trước ngoái lại nhìn mình bèn bảo gã: “Công tử đi trước đi, hình như tôi đánh rơi đồ, phải vòng lại tìm.”
Chu Tử Tần ừm một tiếng, nghiêng ngó nhìn quanh quất, song cạnh gã là một tảng đá lớn, che khuất bóng dáng Vũ Tuyên ở bờ bên kia, gã chỉ thấy rừng sâu thăm thẳm, khe suối róc rách, không có gì khác thường, bèn dặn dò: “Sùng Cổ nhanh lên nhé.”
Đợi gã ra khỏi cánh rừng, nhằm thẳng hướng đường cái quan, Hoàng Tử Hà mới giực ngựa lội qua suối, đi đến bên Vũ Tuyên rồi nhảy xuống ngựa.
Cô nghe thấy giọng hắn, rất khẽ, đượm vẻ khàn khàn mệt mỏi, chẳng biết hắn đã đứng đó bao lâu: “A Hà…”
Cô lại nghe thấy cách gọi này, nhưng, dường như đã cách cả một đời.
Hồi còn ở phủ quận thú, hắn từng rất nhiều lần khe khẽ gọi cô như thế.