Chúng tôi dắt Song Tích bước trên cơn đường dẫn đến công xã.
Trên lưng tôi có đeo một thiếc túi, trong đó có một ít bánh bột ngô, mấy củ hành lớn, một ít tương. Đây là sự đãi ngộ rất lớn của mẹ dành cho tôi, bởi tôi phải rời khỏi nhà đi xa, còn không thức ăn chủ yếu hàng ngày của tôi là những củ khoai héo quắt và đầy những con sâu đục bên trong. Ông Đỗ thì đeo một chiếc cặp sách màu vàng trên lưng, trên cặp sách có thêu chữ màu đỏ. Đây là một cặp sách kiểu Tây, trong hoàn cảnh bấy giờ chỉ có những thanh niên đại trí thức mới có khả năng sử dụng những cặp sách như thế. Tôi đã từng mơ tưởng là một lúc nào đó mình sẽ có được chiếc cặp sách quý giá này, nhưng đến giờ tôi vẫn chưa thỏa được mong ước. Ông Đỗ đang dương dương đắc ý với chiếc cặp sách thời thượng trên lưng dắt con Song Tích ở phía trước, chiếc cặp sách làm giá trị con người ông ta tăng thêm bao nhiêu phần. Tôi đeo chiếc túi cũ rích trên lưng và cầm một chiếc quạt đi sau Song Tích, không ngừng phe phẩy để đuổi ruồi nhặng cho nó. Chỉ cần chiếc quạt vung lên là ruồi nhặng bay tứ tung cả lên và để lộ vùng bị sưng tấy giữa hai đùi trước mắt tôi trông giống hệt một chiếc bánh đúc đậu xanh và có màu sắc bánh đúc đậu xanh. Nhưng chiếc quạt vừa dừng là ruồi nhặng đã đáp xuống bâu kín lại.
Chúng tôi rời khỏi làng, đi qua chiếc cầu, bước trên con đường rải đá dăm nối với công xã. Nói không quá rằng, chúng tôi không thể đi nhanh hơn giun bò, không phải là chúng tôi không muốn đi nhanh mà là Song Tích không thể đi nhanh, ngay cả chuyện đứng cho vững của nó lúc này cũng đã là quá sức nhưng chúng tôi muốn nó đi, nó đành phải đi thôi. Đã ba ngày ba đêm nó không hề được nằm xuống, cũng không hề được đứng yên một chỗ được một phút nào, tôi nghĩ đầu óc nó lúc này cũng phải lú lẫn mất rồi. Nếu con người mà nhận hình phạt như vậy, e rằng đã gục chết từ lâu rồi, không chết vì mệt cũng chết vì lú lẫn thôi. Đúng là làm một con trâu chân chính không hề dễ tí nào! Nếu tôi là Song Tích, tôi sẽ nằm xuống, còn chuyện sống chết là chuyện nhỏ. Nhưng nó không phải là tôi. Ông Đỗ kéo phía trước, tôi đẩy ở phía sau buộc nó đi, nó phải đi, từng bước, từng bước, bước sau khó khăn hơn bước trước một cách rõ ràng...
Mặt trời lên đến đỉnh đầu thì chúng tôi đi đến giếng nước ngọt. Cái giếng này cách làng tôi ba cây số. Ông Đỗ nói :
- La Hán à, ông cháu ta đi thế này cũng không thể gọi là chậm đâu, cứ theo đà này, mười hai giờ đêm nay chúng ta sẽ đến trạm thú y thôi.
- Thế mà không chậm nữa sao? - Tôi trố mắt nhìn ông ta - Tôi đi xem phim trên công xã, chỉ cần chạy hơn hai mươi phút là đến.
- Thế này là đã nhanh lắm rồi, đừng có mà "bất tri túc" như thế! Nghỉ một tí, ăn một tí rồi đi tiếp.
Chúng tôi dắt con Song Tích đến gốc liễu bên cạnh giếng nước và buộc lại, tôi mở chiếc túi, ông Đỗ mở cặp sách. Ông Đỗ cũng có mấy mẩu bánh bột ngô trong cặp sách, tôi nhìn ông ta rồi cũng lôi mấy mẩu bánh bột ngô và củ hành ra. Ông Đỗ cũng tiếp tục lấy ra một củ hành. Tôi lấy tương, ông ta cũng lấy tương... Nói tóm lại, không hẹn mà bữa trưa của ông Đỗ và tôi hoàn toàn giống nhau. Ăn xong, ông Đỗ lôi từ trong cặp sách ra một chai thủy tinh, trên cổ có buộc một chiếc dây thừng thật dài. Ông ta cầm lấy đầu chiếc dây thừng rồi thả chiếc chai xuống giếng, lắc lắc mấy cái rồi thả tay thật nhanh, chiếc chai chìm hẳn xuống mặt nước, một luồng bong bóng nối nhau nổi lên mặt nước. Nước đã đầy, ông Đỗ kéo nó lên. Tôi phục lăn, nhận xét :
- Ông Đỗ, ông đúng là người có đầu óc, có kế hoạch...
- Nếu để tao làm đội trưởng đội sản xuất, đảm bảo tao làm ngon hơn chú Mặt Rỗ nhà mày!
- Cháu nghĩ làm đội trưởng sản xuất vẫn chưa xứng với tầm của ông. Ông phải làm gì đó thấp nhất cũng phải là bí thư đảng ủy công xã!
- Mày chớ có nói hồ đồ như vậy! Bí thư đảng ủy công xã phải là người đầu đụng các vì sao trên trời, làm được đến chức ấy không phải người thường đâu!
- Ông Đỗ, ông nghĩ thử xem, nếu bố cháu làm bí thư đảng ủy công xã, cháu sẽ như thế nào nhỉ?
- Thằng oắt con người ghét quỷ hờn như mày mà đòi có bố làm bí thư công xã à? - ông Đỗ đưa chai nước cho tôi, nói - Được rồi, ông nhóc! Đừng có nằm mơ nữa, uống nước đi, uống xong thì đi!
Tôi dốc cả chai nước vào bụng mình, những tiếng óc ách vang lên từ bên trong bụng tôi. Ông Đỗ tiếp tục thả chiếc chai xuống giếng kéo lên một chai nước đầy và đổ vào mồm Song Tích. Tôi chỉ thấy những dòng nước chảy quanh mép dưới nó rồi chảy xuống đất.
- Dù sao thì cũng phải cho nó uống tí nước, nếu không nó chưa chết vì bệnh đã phải chết vì khát thôi - ông Đỗ nói.
Vừa nói, ông Đỗ vừa tiếp tục ném thiếc chai xuống giếng rồi kéo lên chai nước nữa, bảo tôi nắm lấy hai chiếc sừng trâu để vặn mạnh, buộc nó phải vểnh mồm lên trên trời rồi nhét cả nửa chiếc vỏ chai vào mồm con Song Tích. Lần này thì tôi nghe thấy tiếng nước thảy róc rách từ cổ họng tuôn vào dạ dày nó. Ông Đỗ xoa tay, vô cùng phấn khởi.
- Quá tốt, cuối cùng chúng ta cũng đã ép nó uống được ít nước, uống được nước là không thể chết được!
Chúng tôi rời khỏi bóng mát của cây liễu quay lại con đường đá dăm. Đầu hạ, mặt trời đúng ngọ nóng rát, con đường rải đá dăm lấp lóa những tia phản quang. Tôi đề nghị là nghỉ thêm một lát nữa, chờ ặt trời xế bóng hãy tiếp tục đi. Ông Đỗ bảo nghỉ càng lâu thì sức càng kiệt quệ, lại còn tuyên bố là ánh nắng mặt trời có khá năng tiêu diệt vi khuẩn. Ông ta còn nói, Song Tích đang rét run, lẽ nào mày không thấy những luồng run như những con sóng đang chạy trên da nó hay sao? Tôi tin là ông Đỗ có những kinh nghiệm sống phong phú hơn mình nhiều, do vậy mà tôi không hề hé răng tranh luận, trong lòng cũng muốn đến trạm thú y càng sớm càng tốt để lão Đổng chữa trị cho nó nên lẳng lặng đi theo ông Đỗ và Song Tích. Kể ra, tôi vẫn còn là một đứa bé lương thiện!
Tôi vơ một ít cỏ dại bên đường bện thành một thiếc vòng đội lên đầu. Trước mắt tôi, chiếc đầu hói nhẵn của ông Đỗ loang loáng mồ hôi. Tôi chạnh lòng, bèn lấy thiếc vòng cỏ trên đầu mình xuống và quăng cho ông Đỗ. Ông ta chụp lấy đội lên đầu và nói :
- Thằng nhóc này, càng ngày mày càng được lên rồi đó. Tuổi trẻ là phải như vậy!
Câu nói của ông Đỗ khiến lòng tôi ấm hẳn lên nhưng miệng vẫn nói :
- Ông à, những lời ông nói nghe có vẻ cổ lỗ sĩ quá, giống như thời Bát Lộ quân ấy!
- Tiếc thay là con người không thể có mắt trước mắt sau - ông Đỗ than thở - Nếu có mắt trước mắt sau, có nói gì đi nữa thì tao cũng đã trở thành người của Bát Lộ quân rồi!
- Ông ơi, vì sao ngày ấy ông không đi theo Bát Lộ quân? - Tôi hỏi.
- Nói ra có vẻ khó nghe lắm - ông Đỗ nói - Lúc ấy không ai nghĩ là Bát Lộ quân sẽ làm nên trò trống gì. Quân Bát Lộ ăn chẳng ra hồn, mặc chẳng nên thân, vũ khí lại càng thô sơ đếm đi đếm lại cũng chỉ có mấy khẩu súng cà tàng, gỉ sét, đạn cũng ít, mỗi người chì được phát hai nẹp đạn đánh nhau chỉ toàn dựa vào loại lựu đạn tự tạo, mười quả may ra nổ được năm. Quân đội Quốc Dân Đảng không giống như thế, quân trang rặt một màu xanh lục, trang bị súng ga-răng của Mỹ, đạn đầu đỏ đít xanh giắt khắp người. Loại súng này ấy à, chỉ cần kéo cò là mười mấy viên tuôn ra - pằng pằng pằng..., đinh tai nhức óc. Còn lựu đạn của họ ấy à, tròn tròn xinh xinh như quả cam nhỏ nhưng mỗi khi phát nổ thì trời đất tối sầm, có thể giết chết người đứng cách năm bảy mét. Rồi nào là xe mười bánh kéo những khẩu pháo lớn có thể bắn xa đến năm mươi cây số, rơi xuống đất là đào một cái hố sâu hoắm... Ông nhỏ à, lúc ấy không thể so với bây giờ. Bây giờ bị đánh cho vỡ đầu cũng phải đi lính cho được, lúc ấy có ai tình nguyện đi lính đâu. Đàn ông giỏi không đi lính, thép tốt không làm đinh! Cho dù có đi lính, tao cũng không tự nguyện theo Bát Lộ quân đâu, buộc phải đi thì tao theo quân Quốc Dân Đảng. Làm lính Quốc Dân Đảng oai hơn, ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn, tiền đồ cũng rộng mở hơn, Bát Lộ quân không phải là sự lựa chọn khôn ngoan của kẻ anh hùng thời loạn. Ông nhỏ à, nói ra có vẻ khó tin nhưng cho đến những năm bốn mươi, những người sống trên mảnh đất quê mình như tao, như ông nội mày chưa hễ biết lãnh đạo Bát Lộ quân là ai, sau đó mới nghe người cầm đầu là Chu Mao, sau đó nữa mới nghe mọi người nói Chu Mao vốn không phải là tên một người mà là hai người, Chu là đàn ông, Mao là đàn bà. Nhưng ngày ấy ai cũng biết Tưởng Giới Thạch, Tưởng ủy viên trưởng...
- Thế thì ông nói thử xem, vì sao quân Quốc Dân Đảng lại bị Bát Lộ quân đánh cho tan tác? - Tôi hỏi.
- Tao nghĩ là Bát Lộ quân chịu đựng được gian khổ, quân Quốc Dân Đảng không chịu đựng được gian khổ. Bát Lộ quân không có vẻ quan cách, quan lớn quan nhỏ đều không hống hách; quân Quốc Dân Đảng hống hách, quan lớn hống hách đã đành nhưng quan nhỏ hống hách càng tợn, càng nhỏ càng hống hách càng ngạo ngược. Chái nhà phía đông của tao đã từng có một vị thiếu úy quân Quốc Dân Đảng ở, ngay cả nước rửa chân cũng có cần vụ mang đến tận đầu giường, nhưng sư đoàn trưởng Bát Lộ quân lại quét sân cho nhà tao. Còn nữa, quân Bát Lộ không hề đụng đến đàn bà, không phải là họ không thèm mà không dám; quân Quốc Dân Đảng không phải như thế, mỗi khi trông thấy đàn bà đẹp là dắt ngay lên giường... Chỉ đơn cử bấy nhiêu thôi, quân Quốc Dân Đảng không thể không thất bại tan tác.
- Ông đã nhìn ra quân Quốc Dân Đảng nhất định thất bại, thế sao ông không tham gia Bát Lộ quân? - Tôi hỏi.
- Thời ấy ai nhìn cho ra, nhìn ra như vậy nhất định tao đã tham gia Bát Lộ rồi! - ông Đỗ trầm ngâm nói. - Nếu ngày ấy tao tham gia Bát Lộ quân, đến bây giờ cho dù có bị o ép gì cũng làm đến ngang tầm bí thư công xã, ăn đồ ngon, uống đồ ngọt, dưới mông có ghế mềm. Nhưng biết đâu được, có khi đã tan xác dưới những quả pháo hạng nặng của Quốc Dân Đảng rồi. Mệnh số con người trời đã an bài, cả đời này tao phải ăn bát cơm nào thì ông trời đã bày sẵn rồi, trăn trở lo lắng cũng chẳng thay đổi được gì đâu. Người không thể đối kháng với trời, tao là kẻ lúc nào cũng biết thế nào là đủ, so với trên thì không đủ nhưng so với dưới thì cũng đã thừa!
Cứ thế những lời đối thoại của chúng tôi không đâu vào đâu cả hướng lên trời nói một câu, hạ xuống đất nói một câu chậm chạp chán nản cả người lẫn vật lê tấm thân mệt mỏi nhích dần về phía trước. Nói nhiều cũng mệt, chúng tôi lặng thinh để yên lặng bao trùm. Và chúng tôi nửa ngủ nửa thức đi trong sự yên lặng ấy, bây giờ nghĩ lại, bức tranh đồng quê lúc ấy có chúng tôi làm nhân vật trung tâm rõ ràng rất có thần : Một vầng mặt trời rực rỡ chiếu thẳng giữa đỉnh đầu; con đường rải đá dăm dưới ánh nắng biến thành màu vàng; một lão già đội vòng cỏ dại, lưng đeo cặp sách, mặt nghênh đón ánh nắng thẳng đứng, một con mắt lớn một con mắt nhỏ nheo nheo, một chiếc dây thừng vắt qua vai đang rướn chiếc cổ ra thật dài, đầu chúi về phía trước đi từng bước một. Cảnh này rất giống cảnh những người phu kéo thuyền trên sông mà sau này tôi đã nhiều lần xem qua. Sau lưng lão là một con trâu ốm yếu bị dây thừng kéo mạnh đến độ mặt luôn luôn phải vểnh lên trời, trên mặt trâu có nước mắt và ruồi nhặng, lưng trâu cong vòng và một chiếc đuôi trâu buông xuôi. Chỗ xấu nhất của trâu không nên đưa vào bức họa làm gì. Trọng tâm của bức họa này có lẽ là tôi. Tôi xấu người xấu nết nhưng không bao giờ tự nhận thức được chính mình, ưa làm trò quỷ, ưa tác quái tác oai, ngay cả chị tôi cũng đã từng hỏi mẹ : Mẹ ơi, mẹ nói đi, sao mà nó xấu thế? Thợ vẽ mà gặp nó cũng bó tay, làm sao vẽ cái mặt nó cho ra hình ra thù là một con người? Tất nhiên là mẹ chẳng lấy gì làm dễ chịu với những lời chất vấn của chị tôi nên bảo : Chó đẻ thì chó thân thiết, mèo nuôi thì mèo thương yêu, chúng mày không nuôi không đẻ nó ra nên chúng mày thấy nó xấu thôi! Đương nhiên, những lúc nổi điên lên thì mẹ cũng có chửi tôi xấu. Tôi bò trên miệng giếng, cố gắng nhìn thật kỹ khuôn mặt mình dưới đáy giếng, đúng là có rất nhiều vấn đề. Chẳng hạn, trong miệng tôi có một chiếc răng hổ rất nhọn rất dài, chị tôi bảo răng cào cỏ, chín sáu ba không đại loại. Tôi giận tím mặt, tìm một chiếc giũa và bắt đầu giũa, giũa cho đến khi nó bằng với những chiếc chung quanh thì dừng. Trong khi giũa, toàn bộ hàm răng tôi tê buốt, hình như não tôi cũng bị chấn động không nhẹ, nhưng tất cả là vì cái đẹp, tôi cương quyết làm đến tận cùng. Tôi đem chuyện này ra kể cho những người trong thôn nghe, hình như chẳng có ai tin, đều cho tôi là thằng bé thích nói phét. Đầu tóc tôi lơ thơ một nhúm tóc vàng quạch, mặt tôi lại có lang ben trắng lóa. Thời ấy, hầu như mặt đứa trẻ con nào cũng bị lang ben, nghe đâu dùng dấm bôi là có thể diệt được lang ben, tôi bèn quyết tâm ăn trộm dấm trong chạn của mẹ để bôi, nhưng bôi mãi mà lang ben vẫn không hết...
Lúc này thì tôi đang đeo trên lưng một chiếc túi rách, mặc chiếc quần rộng thùng thình, một đôi giày to tướng, trong tay lại cầm một chiếc quạt giấy rách tươm thi thoảng gập người xuống để quạt dái của một con trâu... Đúng là người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm; cả ông Đỗ và tôi đều chẳng ra gì, trâu cũng chẳng ra gì, nhưng kể ra nếu đi vào hội họa thì chúng tôi cũng có những đặc sắc riêng. Nếu được thì cũng có thể vẽ thêm vào đó hàng cây bên đường. Hai bên đường phần nhiều là cây bạch dương, thi thoảng mới có chen một vài cây hòe. Trên những vòm cây bạch dương có rất nhiều loại sâu mà người vùng tôi gọi là "quỷ treo" dài ngoẵng, bám vào những cành cây mềm mại đung đưa trong gió. Ruộng lúa mạch hai bên đường đang thời kỳ đơm bông, có thể ngửi thấy trong không khí một mùi thơm dìu dịu. Một bức họa thật tuyệt vời! Nhưng toàn thân tôi đang đau nhức rã rời, mắt tôi hoa, đầu tôi choáng, trước mắt như có một màu đen sẵn sàng phủ xuống, cổ họng vừa khô vừa đắng, chân đau... Nhưng tôi biết, những điều đang hành hạ tôi vừa kể trên không thấm tháp gì so với những chịu đựng của Song Tích. Những gì nó đang chịu đựng kể ra phải cao hơn cả trời xanh, dày hơn cả đất vàng. Đầu nó không thể không đau không choáng, suy cho cùng thì bốn năm đêm vừa rồi chúng tôi ít nhiều có chợp mắt được một tí, nhưng Song Tích chắc chắn là không thể ngủ. Lúc này tôi đã nghĩ ra rồi, không cho những con trâu mới thiến nằm xuống rõ ràng là quá sức vô lý. Đừng nói là một con trâu bị thiến, một con trâu lành lặn mà bị buộc phải đứng một chỗ hoặc đi đi lại lại bốn ngày bốn đêm quả là một cực hình tàn khốc nhất thế gian này. Đằng này nó đã bị cực hình, mất máu, lại bị viêm nhiễm sưng tấy lên... Chân của nó đã sưng, máu trong người nó đã thiếu, bìu dái của nó lại đang chứa những chất dịch thối hoắc cương lên như một quả bóng... So với Song Tích, chút khổ mà tôi đã trải qua cũng thỉ là một cọng lông chim hồng. Ông Đỗ có chịu đựng nổi không? Xem ra thì ông ta cũng chẳng hơn tôi là mấy. Ông ta đã sáu mươi tám tuổi! Thời ấy, người sống đến sáu tám đã được xem là người cao tuổi. Ý của tôi là, tuyệt đại các bộ phận trên thân thể của ông Đỗ đã bị bụi vàng vùi lấp rồi. Răng ông ấy đã rụng gần hết, chỉ còn chơ vơ hai chiếc răng nanh to tướng đen sì. Hai thiếc răng này như cố níu kéo chút thanh xuân cho gương mặt ông ta, bởi hai chiếc răng này khiến mặt ông ta gần giống với mặt thỏ, mà thỏ thì cho dù có bao nhiêu tuổi cũng nhanh nhẹn hoạt bát và hiếu động, mà nhanh nhẹn hoạt bát và hiếu động là biểu hiện của tuổi thanh xuân...