Đạn pháo ngày hôm đó không bắn trúng Tiêu Đả Hổ, nhưng khiến ngựa hoảng loạn hất hắn ngã xuống đất, kết quả bị trọng thương, gãy ba cái xương sườn, chân trái còn bị vó ngựa dẫm lên. Tiêu Đả Hổ bị thương tất nhiên khiến chiến lược của quân Liêu ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng vì thế khiến chúng hành động càng thêm thận trọng, nhất thời chiến trường lắng hẳn xuống.
Vân Tranh ngồi bên bồn lửa, nhìn tuyết lớn rơi như lông ngỗng, nâng chén mời ông trời, sau đó uống một hơi hết nửa chén rượu ấm.
Tuyết lớn bắt đầu từ đêm qua, đến sáng nay vẫn không hề có dấu hiệu nào là sẽ dừng lại, Tô Tuân nói tuyết thế này phải rơi năm ba ngày, nói như đúng rồi vậy, ông ta là người Thục, cả đời chẳng gặp tuyết rơi mấy lần.
Dù sao không còn chiến sự, Tết lại cận kề cho nên Vân Tranh ngồi dưới ô, sưởi ấm, uống rượu, thưởng tuyết.
- Đất Thục không thể thấy được tuyết lớn thế này, Lý Bạch nói "Núi Yên Chi tuyết rơi như bão, đài Hiên Viên sụp đổ tung bay." Tuyết lớn trên hoang nguyên cũng chẳng hề thua kém.
Tô Tuân mặc cái áo choàng lông dầy cộm ngồi bên cạnh cười nói: - Chỉ người giàu mới có nhã hứng thưởng tuyết, người cùng khổ lúc đó cắn chặt răng mong sao cho tuyết sớm ngừng, ai rảnh quan tâm tuyết rơi thế nào.
- Ha ha ha, chúng ta quân tư sung túc, đồ ngự hàn đầy đủ, có thể tính là người giàu trong miệng tiên sinh, còn Tiêu Đả Hổ là người cùng khốn, thời tiết thế này bò dê của bọn chúng không chịu nổi đâu.
Tuyết lớn đã phủ hết cỏ cây, bò dê không tìm được cái ăn, nếu như không có chỗ tránh gió tuyết, chỉ e mười phần không còn được một, Tiêu Đả Hổ tới nay tự tin tử chiến không lui là vì dựa vào lương thực Thôi Đạt để lại trong thành Tây Kinh, Tô Tuân nhàn nhã cời than trong bồn cháy to hơn, rụt tay vào trong lớp áo dày: - Nếu Tiêu Đả Hổ mà biết lương thực đã bị Thôi Đạt đưa lương thực tới Thải Lương sơn, kho trống không, chẳng biết vẻ mặt hắn thế nào?
- Ài, chúng ta cũng chẳng được yên thân, lưu dân của Vương An Thạch đã tới Mã Ấp, ba ngày nữa tới được Dã Hổ khẩu, số lương thực đó hẳn đỏ cho bọn họ cầm cự tới khai xuân chứ?
Hai người đang nói chuyện thì thám báo nước mũi chảy dài chạy tới quỳ xuống báo: - Khởi bẩm đại soái, trung quân của Tiêu Đả Hổ đã bắt đầu di chuyển, mục tiêu là thành Tây Kinh.
Vân Tranh ngồi thẳng dậy, y chờ tin tức này đã lâu: - Tiền quân là ai? Hậu quân là ai? Mục nhân của hắn ở chỗ nào?
- Khởi bẩm đại soái, tiền quân là phó tướng Hàn Trụ, đoạn hậu là một người tên Tiêu Triển, thuộc hạ không rõ người này là ai! Mục nhân của người Liêu dẫn bò dê theo sát trung quân.
Vân Tranh đưa cho hắn bầu rượu đã được hâm nóng: - Lau nước mũi đi, lạnh tới mấy cũng phải trông cho sạch sẽ chút, lớn tướng rồi mà còn nước mũi ròng ròng thì ra cái gì?
Thám báo cười ngượng lấy tay áo lau nước mũi, sau đó cầm bầu rượu tu lấy tu để. Đang trong thời chiến, Vân Tranh không dám uống rượu mạnh sợ lỡ việc, chỉ uống rượu gạo rất nhẹ, nên thám báo tu một hơi hết sạch, sau đó chắp tay rời đi.
Vân Tranh đảo đậu rang nổ tanh tách trên chảo, nói: - Lang Thản và Lý Đông Sở không thể trốn trên núi nữa rồi, còn kỵ binh của Triệu Phu nên thả ra cho thấy máu, tiên sinh thấy sao?
- Nếu đại soái đã hạ quyết tâm, vậy cứ làm theo kế hoạch. Tô Tuân giữ rất đúng phận sự, lúc cần góp ý không ngại nói, nhưng khi quyết định không can dự, Vân Tranh hỏi thế là tỏ ý tôn trọng thôi:
Vân Tranh gọi lính truyền lệnh tới: - Truyền lệnh, Lý Đông Sở phụ trách cường công, Lang Thản truy kích, Triệu Phu quấy nhiễu đội ngũ mục nhân, không cần giết địch, chỉ cần giết thật nhiều bò dê. Đại quân chuẩn bị sẵn sàng lên đường.
- Phái người báo cho Thôi Đạt, không cần vào thành nữa, người trong thành cũng rút lui cả đi.
Trên hoang nguyên mênh mông nhìn không thấy điểm cuối có một đội ngũ ăn mặc rách rưới đạp tuyết bôn ba, tuyến bay tán loạn rơi trên mặt, vì quá lạnh sương tuyết đọng trên mi, râu không tan được, dần dần kết thành băng.
Hai đội kỵ binh không ngừng qua lại, lớn tiếng quát tháo bọn họ bước nhanh, bám sát đội ngũ phía trước.
Kỵ binh rất ít nhưng hàng người dài dằng dặc, khiến cho chiến mã phía dưới chạy đi chạy lại tới thở dốc liên hồi.
Quân hầu đi trên cùng đội ngũ nhìn thấy một quân doanh bị bỏ hoang, hét to một tiếng, cả đội ngũ dừng lại, hắn dẫn bộ hạ vào quân doanh kiểm tra một lượt, sau đó ra lệnh đội ngũ đi vào.
Cái quân doanh vừa rồi còn vắng tanh chẳng mấy chốc chật kín, củi khô ngay lập tức được chất thành đống, chẳng mấy chốc đốc lửa lớn ngày ngùn ngụt.
Đây là ba vạn trai tráng trong số mười vạn lưu dân được đưa tới Nhạn Môn Quan, vì cung ứng cơm áo cho số lưu dân này, Vương An Thạch lo nát lòng, vì những người này ông ta phải hạ cái đầu cao ngạo của mình với đám quân hán, bị làm gây khó dễ không ít.
Văn thần tôn quý thể hiện ở kinh sư, chứ tới vùng biên ải chẳng còn quý giá mấy nữa rồi, nhất là người mang tội vào quân đội phục vụ như Vương An Thạch càng chẳng được tôn kính mấy.
Đàm Uy thủ vệ Hà Khúc thành xuất thân dòng dõi thư hương, vì thế còn giữ tôn trọng nhất định với ông ta, Lý Thường tuy có thù nhưng vẫn giữ khí tiết, khi biết Vương An Thạch dẫn theo một đoàn lưu dân chuyên môn đưa tới lượng lớn lương thực, còn Chủng Ngạc trừ quân lương triều đình quy định, không cho thêm một hạt thóc.
Con đường Vương An Thạch đang đi chính là tuyến đường hành quân của Vân Tranh, vì thế Vân Tranh khi đi không lệnh quân tốt tháo rỡ quân trại, lưu dân khác đại quân, bọn họ không có kỹ năng này, bình thường ngủ ngoài trời cũng không ảnh hưởng gì, nhưng thời tiết này mà không có chỗ trú ẩn, chẳng biết mấy người tới được đích.
Triều đình Đại Tống đối xử với lưu dân cực kỳ vô tình, khi Vân Tranh ở Đậu Sa quan đã biết rồi, bắt được lưu dân còn được quan phủ thưởng, khiến cho có thợ sơn chuyên môn làm nghề này.
Vì lưu dân không nộp thuế, không nghe quan phủ quản hạt, là nguồn tặc binh, là căn nguyên bất ổn của xã hội, còn vì sao mà người ta thành lưu dân thì ít người bận tâm.
Năm xưa Bao Chửng ở Trần Châu mở kho lương cứu tế bách tính, không bao gồm lưu dân, ngay cả viên quan có lòng nhân ái như Bao Chửng còn coi lưu dân như không tồn tại, khỏi nói cũng biết thái độ của người khác.
Tâm tư ác độc của quan phủ khiến người ta không muốn nhắc tới, năm xưa Hàn Kỳ đại bại ở Hảo Thủy Xuyên, sở dĩ có thể cầm cự được khi viện quân tới là do dùng vô số sương quân lên thế mạng.
Số sương quân này thậm chí còn chẳng phải là sương quân thực sự, bọn họ chỉ có gậy gỗ, cuốc gỗ, một ngày trước đó bọn họ là nông dân vì chiến tranh mà mất ruộng đất, huấn luyện qua loa rồi đẩy lên chiến đấu với người Tây Hạ.
Người Tây Hạ sau khi rút lui, bắt sống được không dưới mười vạn người, còn Thiểm Tây lộ thì giải quyết được sương quân một cách thần kỳ.
Đám sĩ đại phu cho rằng, loại đồ tể như Vân Tranh hoàn toàn không coi mạng người ra cái gì nên đẩy số lưu dân này cho y giải quyết, nhưng cái nhìn của Vân Tranh với sinh mệnh hoàn toàn khác, đối diện với kẻ địch, Vân Tranh không từ thủ đoạn, như đánh sập Thừa Yên quan, tận diện đạo phỉ ở Thục, lùa đạo phỉ Thái Hành Sơn tới họa hại Yến Vân, hỏa thiêu tù binh ở Hoàng huyện.
Nhưng nếu không phải kẻ địch, bất kể bọn họ có hèn hạ, có ti tiện thế nào, Vân Tranh thấy ai cứu người đó, bắt đầu là từ Tịch Nhục, Hàm Ngưu, Hầu Tử rồi đám Lão Liêu... rồi tới Ngỗi Minh công chúa, đó là sự kiên trì nho nhỏ mà y chưa bao giờ từ bỏ, đó là lương tâm của một giáo viên.