Ngọc Long Kiếm Phổ được chia thành ba quyển, cùng với Ngọc Long Tâm Pháp bổ trợ cho nhau. Đây là tâm pháp và kiếm quyết chỉ được truyền cho thiếu quân của châu Lý Ngư ta.
Truyền thuyết kể rằng cách đây hàng ngàn năm, ở châu Lý Ngư có một nữ quân đã sáng tạo ra bộ tâm pháp này, một khi luyện thành ba quyển sẽ trực tiếp phi thăng thành Long Thần đời mới.
Mẹ ta được xem là thiên tài hiếm có của châu Lý Ngư nhưng cũng chỉ luyện được quyển thứ hai của Ngọc Long Kiếm Phổ.
Ta lấy ra một quyển sách ngọc từ trong linh giới, xem kỹ từng trang nhưng trên đó không có một chữ nào cả. Ta dùng dao rạch vào lòng bàn tay, tay nắm chặt thành đấm để máu nhỏ xuống thấm vào từng trang sách.
Đến lúc sắc mặt ta tái nhợt vẫn không có gì xảy ra, nửa chữ cũng không xuất hiện.
Dù ta đã bắt đầu luyện quyển thứ hai Lý Ngư Phong của Ngọc Long Kiếm Phổ nhưng bí kinh trên đó vẫn không chịu hiển lộ cho ta xem. Nếu không có bí kinh chỉ dẫn thì ta không thể luyện tiếp được nữa.
Ta rõ ràng là thiếu chủ danh chính ngôn thuận của châu Lý Ngư, trên người chảy xuôi dòng máu thuần khiết nhất của mẹ ta, nhưng quyển sách ngọc này chẳng chịu hé lộ nửa chữ với ta.
Thế mà máu của Vãn Nhĩ Nhĩ lại có thể, chỉ cần nhỏ vài giọt lên đó là được.
Tại sao chứ? Dựa vào cái gì?
Ta suy yếu quỳ trên giường, thật sự có chút mê mang, vết thương nơi lòng bàn tay lại rỉ máu vì ta siết chặt quá mức, tựa như chấp niệm về một ai đó lặng lẽ len lỏi vào trái tim ta, chờ ngày nào đó bén rễ nảy mầm xuyên thủng qua nó.
Đột nhiên bên ngoài truyền đến tiếng Phạn, là âm thanh ai đó gõ vào bát vàng vang lên vô cùng rõ ràng.
Ta chợt tỉnh táo lại, ngẩng đầu lên, nhẹ nhàng thở ra một hơi, cất sách ngọc vào linh giới rồi mới đứng dậy mở cửa ra xem bên ngoài có chuyện gì.
Chỗ này cách xa đỉnh chính, ngược lại rất gần với Kiếm Trủng nên có rất ít đệ tử sống ở đây.
Khoảng sân bên cạnh đã lâu không có người ở nay lại có người ra vào vận chuyển đồ đạc tạo ra một loạt tiếng ồn.
Kiếp trước quả thật có người sống cạnh nơi ở của ta, nhưng chẳng được bao lâu đã dời đi. Ta cũng chưa gặp qua người đó.
Ta lần theo tiếng gõ bát vàng trèo lên bức tường thấp.
“Đặt chậu tùng ngọc này cạnh tường, cẩn thận một chút!”
“Dọn sạch mọi thứ từ trong ra ngoài, thay bằng đồ dùng của ta.”
Công tử Bạch Lăng diện một thân trang phục màu trắng như mây đang gõ vào thứ gì đó, chỉ huy các sư đệ của hắn bố trí sân vườn.
Dù có lụa trắng bịt mắt nhưng hắn rất nhanh quay đầu về phía ta, môi đẹp cong lên: “Ồ, tiểu Triều Châu, muội cũng sống ở đây?”
Ta nhìn kỹ mới nhận ra thứ hắn đang cầm trên tay rõ ràng là một cái nồi sắt lớn màu đen, tay còn lại cầm cán xẻng để gõ.
Ta thật sự gặp quỷ rồi, vậy mà nghe rõ âm thanh trong trẻo của chùa Đại Bi.
Ta ngây người nhìn các đệ tử áo trắng của phái Côn Luân bận rộn bố trí chỗ ở. Khoảng sân này không còn là nơi ta có thể với tới, đâu đâu cũng đều toát ra vẻ tinh tế, xa hoa.
Một đệ tử lau mồ hôi trên mặt, chạy đến trước mặt Hạ Từ Thanh báo cáo: “Sư huynh, bố trí xong cả rồi. Hay để ta ở lại hầu hạ huynh nha.”
Hạ Từ Thanh mỉm cười lắc đầu khiến đệ tử kia buồn bã nhưng vẫn ngoan ngoãn chắp tay, tỏ thái độ vô cùng tôn kính.
Ta do dự hỏi: “Huynh muốn sống ở đây?”
Hạ Từ Thanh gật đầu, cằm lộ rõ vẻ nhợt nhạt, đáp ngắn gọn súc tích: “Ta đến để trị bệnh.”
“Trị bệnh?”
Ta nghi ngờ nhìn hắn, đột nhiên cảm thấy người này vừa phong lưu vừa ốm yếu.
Hạ Từ Thanh ho nhẹ một tiếng, khóe môi có chút máu, hắn nhẹ nhàng lau đi rồi nghiêng đầu nói: “Đúng vậy. Ta sắp chết rồi.”
Trong lúc nhất thời ta cũng không phân biệt được thật giả, có lẽ trí nhớ của ta có vấn đề, ta nhớ hắn không chết vì bệnh tật.
Vì mới gặp mặt nên ta không hỏi thêm gì nhiều. Ai ngờ đầu ngón tay hắn gõ nhẹ vào nồi, cười nói: “Muội muốn ăn chung không? Ta nấu ăn ngon lắm.”
Từ lâu ta đã kiêng ăn ngũ cốc, sợ rằng những tạp chất trong đó sẽ ảnh hưởng đến việc tu hành của ta, thế nên ta lắc đầu.
Kết quả là ta bưng bát lớn ngồi trên bậc thềm trước sân nhà Hạ Từ Thanh ăn cơm trộn nấm kèm với gà lôi núi nướng.
Bầu trời đêm ở phái Phù Lăng có rất nhiều ngôi sao tựa như ngọc trai dưới đáy biển tỏa ra ánh sáng màu tím.
Ta ăn hai bát cơm lớn, còn Hạ Từ Thanh chỉ ăn một ít rồi đặt bát xuống, chống đầu đón gió: “Người trong môn phái có vẻ không thích muội lắm, tiểu Triều Châu.”
Đôi đũa đang và cơm của ta chợt khựng lại, ta nhẹ giọng đáp: “Ta không quan tâm bọn họ có thích ta hay không.”
“Bọn họ thích nhìn thiên tài ngã xuống, tốt nhất là hoàn toàn không gượng dậy được. Họ ghét dáng vẻ háo thắng hơn thua của muội, thích cười trên nỗi đau của người khác, thích châm dầu vào lửa, còn vỗ tay khen hay khi muội và vị sư muội kia trở nên đối chọi gay gắt.”
Ta ăn nốt hạt cơm cuối cùng, nhẹ nhàng đặt bát xuống: “Nhưng ta tin mọi người không tệ đến vậy, ai cũng có mặt tốt. Ta sẽ cố gắng để mọi người thích ta.”
Nỗ lực chưa chắc đã mang lại kết quả tốt, nhưng nếu không nỗ lực thì sao? Chỉ khi cố gắng hết sức mới biết có cơ hội sống hay không. Thế nên vì cơ hội nhỏ bé này, dù đầu va máu chảy cũng không nản lòng.
Trong linh giới của ta chợt xuất hiện động tĩnh khác thường. Ta điềm tĩnh chào tạm biệt Hạ Từ Thanh, quay người bước ra khỏi cổng rồi lao nhanh đến sau núi.
Ta đã dùng tóc của Ân Chu để hạ thuật pháp nhỏ lên vai áo hắn, một khi hắn đến gần hoa ngân châu trong rừng cấm thì ta sẽ biết được.
Ta xuyên qua mấy lối đi vắng vẻ, vòng qua vài khúc cua quanh co, cuối cùng cũng đến được biển hoa ngân châu, đúng lúc nhìn thấy một bóng người lang thang trong rừng cấm.
Rừng cấm không được phòng bị nghiêm ngặt vì trận pháp ở đây là do lão tổ sáng lập nên phái Phù Lăng đã phi thăng cách đây hàng ngàn năm dựng nên. Có vài trận pháp tương tự được thiết lập ở những chỗ khác nhau trong Cửu Vực để trấn áp Ma Vực dưới chân núi Bất Chu. Hàng ngàn năm qua không có động tĩnh gì bất thường, hơn nữa những đệ tử bình thường như bọn ta cũng không thể ảnh hưởng đến trận pháp. Chẳng qua khu vực này dần dà đã trở thành rừng cấm được truyền qua nhiều thế hệ.
Thời gian này ở kiếp trước, dù còn chịu đả kích nặng nề nhưng ta cũng mơ hồ nghe thấy tiếng động bất thường phát ra từ kết giới. Ta nhìn thấy mái tóc đen suốt chục năm qua của sư phụ bỗng chốc bạc trắng, rõ ràng ông ấy đã tiêu hao rất nhiều tinh lực.
Ta ẩn mình thực hiện quyết pháp, ký thác tinh thần lên một con chim tước.
Chim tước ríu rít bay sâu vào bóng tối phía trước, sương mù dày đặc hơn cả đêm đen. Khoảng cách càng gần ta càng thấy rõ bóng người kia hơn, hắn đột nhiên nhìn lại, khuôn mặt hết sức quen thuộc, rõ ràng là Ân Chu.
Hắn đi sâu vào trong, không để ý đến con chim nhỏ bay phía sau, cỏ dại mọc um tùm dưới chân, sương mù ngày càng dày đặc.
Có người đang đợi hắn trong rừng sâu. Kẻ đó mặc áo choàng đen, đầu đội nón lá che khuất khuôn mặt, sương mù bao quanh khó lòng phân biệt được là nam hay nữ, chất giọng khàn khàn: “Ngươi đã luyện thành Trúc Cơ, không uổng công ta khổ tâm một phen. Ngươi có mang theo thứ ta yêu cầu hay không?”
Từ nhỏ ta đã rất mẫn cảm với ma khí, cho dù đứng bên ngoài thì ta vẫn có thể khẳng định người trong làn sương đen kia chính là Ma tộc.
Ta đã sinh nghi khi nhìn thấy vệt đen lóe lên trong mắt Ân Chu ngày hôm đó, không ngờ hắn thật sự lén lút qua lại với Ma tộc.
Ân Chu lấy ra một chiếc bình ngọc trắng tinh xảo từ trong tay áo, trông như một loại linh khí nào đó, bề mặt có ánh sáng nhàn nhạt.
Người mặc áo choàng đen nhận lấy nó, trong giọng nói không giấu được vẻ vui mừng. Người đó đổ một ít chất lỏng màu đỏ tươi gì đó vào trong bình ngọc. Một tế đàn hiện ra từ trong màn sương đen. Người đó tạo ra vài kết ấn rồi đổ chất lỏng trong bình lên tế đài nhưng không có gì xảy ra.
Người mặc áo choàng đen nghi ngờ hô lên.
Bàn tay nhợt nhạt của Ân Chu cầm dây trói ma, tay phải cầm kiếm đâm vào người mặc áo choàng đen.
Hắn hừ lạnh một tiếng, đắc ý nói: “Bình ngọc phù dung này là giả. Ngươi thật sự cho rằng ta đây sẽ trơ mắt để ngươi thi triển yêu pháp tà môn sao. Ta chỉ đang hư tình giả ý với ngươi mà thôi. Còn muốn ta trộm bình ngọc của cha ta, từ đó khiến ta cảm thấy hổ thẹn nữa chứ. Nếu ta bắt được ngươi, chẳng phải còn đáng khen hơn chuyện Vãn Nhĩ Nhĩ đánh bại Triều Châu hay sao, cha ta đương nhiên sẽ nhìn ta bằng cặp mắt khác.”
Hắn hết sức tự tin, quả thật dây trói ma trong tay hắn là do lão tổ Phù Lăng để lại, rất dễ sử dụng, tu vi mạnh yếu không quan trọng, chỉ cần là ma thì nó nhất định có tác dụng.
Người mặc áo choàng đen chặn được thanh kiếm. Dây trói ma theo lệnh bay ra, nhưng khi đến gần người đó thì nó lại rơi xuống đất, không có tác dụng gì.
Không chỉ riêng Ân Chu, ngay cả ta cũng sửng sốt. Sao có thể như vậy?
Bàn tay khẳng khiu lập tức tóm lấy cổ Ân Chu. Khuôn mặt xanh xao của hắn bỗng chốc đỏ bừng, mắt trừng to nhìn người mặc áo choàng.
Ta chửi thầm trong lòng, Ân Chu, ngươi là một kẻ ngu ngốc tự cho rằng mình thông minh.
Tình thế đảo ngược như vậy xảy ra trong chớp nhoáng. Hiện tại sư phụ không ở trong môn phái, ta chỉ nghĩ ra một người có thể cầu cứu. Ta thả một con bướm giấy màu trắng ngọc ra khỏi linh giới rồi nhanh chân chạy vào rừng cấm.
Chim rừng làm mắt dẫn đường cho ta nhìn thấu rừng sâu thăm thẳm.
Ân Chu bị ném xuống đất, hơi thở dồn dập.
Người mặc áo choàng đen hỏi hắn, giọng điệu gần như mê hoặc: “Ngươi không hận sao? Ngươi có tư chất tầm thường, cho dù cố gắng đến đâu cũng không tài nào sánh được với đám người Triều Châu hay Vãn Nhĩ Nhĩ, ngay cả cha ngươi cũng xem ngươi như một vết nhơ. Ta cho ngươi thêm một cơ hội, trở về lấy bình ngọc phù dung mang đến đây cho ta.”
Khuôn mặt đẫm máu của Ân Chu thoáng hiện lên vẻ thất thần, nhưng hắn rất nhanh cắn lưỡi để giữ tỉnh táo, nụ cười trở nên hung tợn: “Ngươi nằm mơ đi. Ta là đệ tử của phái Phù Lăng, sao có thể làm tay sai cho ma tu như ngươi. Nghĩ thôi cũng đã buồn cười.”
Khuôn mặt hắn chợt co giật, dường như đang phải chịu đựng nỗi đau thiêu đốt linh hồn.
Người mặc áo choàng đen quay lại nhìn con chim đang bay. Ta thầm hô không ổn. Quả nhiên giây tiếp theo, con chim bị hòn đá ném trúng rơi xuống đất.
Ta bị mất tầm nhìn, chỉ nghe được giọng nói đột nhiên vút cao, chói tai của Ân Chu: “Ngươi! Không ngờ lại là ngươi!”
Dọc đường đi, sương mù càng lúc càng dày đặc gần như trở thành chướng khí. Ma khí dày đặc phủ vây lấy ta khiến ta cảm thấy vô cùng khó thở. Ta sinh ra đã có dòng máu thuần khiết của thần, không thể chịu được những thứ dơ bẩn. Vậy nên lúc này ta có cảm giác cả người như rơi vào vũng lầy, động tác và tư duy như bị đóng băng.
Ta vào đến nơi nhưng chỉ thấy Ân Chu nằm trên đất, mặt mũi đầy máu, dường như đã tắt thở nhưng hai mắt vẫn mở to nhìn về một nơi.
Ta vô thức nhìn theo thì thấy một khuôn mặt mơ hồ được bao phủ trong màn sương đen, xương thịt lộ ra nhầy nhụa gớm ghiếc.
Ta lập tức phản ứng, rút kiếm khỏi vỏ, đâm thẳng vào đối phương nhưng người đó chỉ né tránh. Sự khó chịu trong lòng ta lại trỗi dậy, luôn cảm thấy có điều gì đó không ổn.
Sương mù dày đặc như mực xung quanh dâng lên, cả người ta rơi vào bóng tối vô tận.
Vô số âm thanh vang lên tựa như yêu ma quỷ quái dụ người.
Không thể nhìn thấy nên ta dứt khoát nhắm mắt lại. Âm thanh dụ dỗ văng vẳng bên tai nên ta phong bế cả thính giác, chỉ để thần thức mở rộng ra ngoài. Ta sử dụng thuật pháp, đối phương lẩn tránh. Ta rút kiếm, đối phương lẩn tránh, không hề phát động tấn công mà chỉ tránh né. Ta đè nén cảm giác kỳ lạ trong lòng, ma khí ngày càng dày đặc hơn. Ác cảm từ nhỏ đối với ma khí của ta lúc này đã lên đến đỉnh điểm, mắt chợt mở ra.
Kiếm Ngọc Long lóe lên ánh bạc xuyên qua sương mù mờ ảo, đâm thẳng vào ngực của người mặc áo choàng đen.
Sương mù chợt tan đi, ta nghe thấy tiếng của thứ gì đó vỡ vụn.
Kiếm Ngọc Long trước mắt không xuyên qua cơ thể gớm ghiếc của ma tu mà lại xuyên qua ngực của một thiếu nữ. Sắc mặt của nàng nhanh chóng tái nhợt, mấy đóa hoa vàng được thêu trên đồng phục đệ tử màu xanh da trời thấm đẫm máu tươi.
Vãn Nhĩ Nhĩ phun máu, hơi thở ngắt quãng gọi: “Sư tỷ.”
Lòng bàn tay và trái tim ta trở nên lạnh buốt. Kiếm Ngọc Long đã xuyên qua ngực của Vãn Nhĩ Nhĩ.
Trong rừng cấm lúc này hoàn toàn không có ma tu, ngay cả tế đàn cũng biến mất, tất cả ma khí mà ta cảm nhận được đã không còn. Trên mặt đất chỉ có một Ân Chu trắng bệch nằm đó, rõ ràng là đã chết.
Ta giống như bị vây hãm trong cơn ác mộng từ lúc đặt chân tiến vào nơi đây. Khi tên ma tu đó bắn hạ con chim thì đã phát hiện ra ta, đối phương nhân cơ hội rời đi, sau đó khống chế Vãn Nhĩ Nhĩ đến chỗ này. Dưới tác dụng của tà thuật, ta đã lầm tưởng Vãn Nhĩ Nhĩ là ma tu, chẳng trách đối phương không hề đánh trả. Âm thanh mà ta cho đó là lời dụ hoặc kỳ thật chính là tiếng của Vãn Nhĩ Nhĩ lo lắng không ngừng gọi ta là sư tỷ, nhưng ta không nghe, cũng không thấy rõ.
Tay ta run rẩy buông kiếm ra. Ta chưa từng nghĩ sẽ có ngày ta chủ động buông kiếm. Ta cũng chưa từng nghĩ sẽ có ngày kiếm của ta đâm vào ngực đồng môn.
Vãn Nhĩ Nhĩ ngã xuống đất, đau đến mức hôn mê. Hô hấp của ta gần như nghẹn lại, bàn tay run rẩy dùng linh lực bảo vệ nhịp tim cho nàng, linh lực màu xanh lam liên tục rót vào nhưng máu cứ chảy qua các kẽ ngón tay ta.
Trong lúc hoảng loạn, một con bướm giấy màu trắng ngọc đậu trên đầu ngón tay ta. Nó được linh lực bảo hộ nên không bị dính máu. Động tác lo lắng khẩn trương của ta dừng lại.
Có ai đó ngồi xổm bên cạnh ta, trên người mang theo hương vị của tuyết mới rơi trên núi. Bàn tay thon dài vươn ra phủ lên bàn tay đang run rẩy của ta, thay ta tiếp tục trị liệu cho vết thương trên ngực Vãn Nhĩ Nhĩ.
Ta quay đầu nhìn thấy khuôn mặt của Tạ Như Tịch. Bướm giấy đã tìm được hắn, hắn cũng đã đến đây. Âm thanh trong cổ họng gần như bị nghẹn lại, ta muốn nói nhưng không thốt nên lời, cổ họng như bị lửa thiêu đốt.
Đôi mắt của Tạ Như Tịch lúc nào cũng tuyệt đẹp. Dưới ánh trăng, ta có thể nhìn rõ hình ảnh phản chiếu của mình trong mắt hắn, nửa khuôn mặt đầy máu, vẻ mặt hoảng loạn. Bên cạnh là Ân Chu đang nằm đó, kiếm Ngọc Long vẫn còn ghim trên ngực Vãn Nhĩ Nhĩ, trước tình cảnh như vậy, dù ta có trăm cái miệng cũng chẳng ai tin.
Tạ Như Tịch rút một chiếc khăn tay màu trắng trơn từ trong tay áo, lặng lẽ lau đi vết máu trên trán ta, điềm tĩnh nói: “Ta biết.”
Mặt đất rung chuyển nhẹ, từng đốm sáng rực rỡ tiến vào rừng cấm, bên trong chưa bao giờ rõ ràng như vậy. Đội tuần tra đêm đã phát hiện ra động tĩnh bất thường, vòng người vây lấy chỗ bọn ta đang đứng.
Sau khi nghe tin chạy đến, chân nhân Ngọc Dĩ không tin vào những gì mắt mình nhìn thấy, ông ta ngồi xuống, đôi tay run rẩy kiểm tra hơi thở của Ân Chu.
Ta thu lại hết sự yếu đuối vừa trỗi dậy, vô thức muốn chạm vào thanh kiếm bên hông nhưng ở đó trống rỗng, nó đang ghim trên ngực của Vãn Nhĩ Nhĩ.
Ta ngẩng đầu thấy mũi kiếm đang chĩa vào ta. Đội trưởng đội tuần tra tỏ vẻ không đành lòng.
Chân nhân Ngọc Dĩ đột nhiên ngẩng đầu, mặt đỏ bừng như một con thú hoang dã phát điên, lao đến chỗ ta như một cơn gió lốc.
Tạ Như Tịch phản ứng rất nhanh, lập tức ấn giữ đầu ta nhưng tóc bên thái dương vẫn bị lực tác động trở nên tán loạn, trông thật nhếch nhác.
Chân nhân Ngọc Dĩ giận dữ hét lên: “Triều Châu!”
Cùng lúc đó, Tạ Như Tịch rút kiếm ra, nhẹ nhàng cắm nó xuống mặt đất bên cạnh, ngăn cách chân nhân Ngọc Dĩ với bọn ta như ngầm cảnh cáo.
Chân nhân Ngọc Dĩ lập tức dừng bước, giọng run rẩy, giận dữ hỏi: “Tạ kiếm quân, ngươi có ý gì?”
Tạ Như Tịch làm như không nghe thấy, hạ mắt xuống nhìn ta, hàng mi dài cong vút, mở miệng hỏi: “Muội muốn ngủ một giấc hay muốn rời đi?”
Tốt bụng như vậy thật sự không giống tác phong của hắn chút nào. Đáng tiếc đã quá muộn rồi, nếu là kiếp trước, ta nhất định sẽ rất hạnh phúc. Nhưng hiện tại, những gì còn đọng lại trong trái tim ta chỉ có hoang đường. Ta lùi lại một bước, thấy Tạ Như Tịch mím môi thành đường.
Ta ngước nhìn chân nhân Ngọc Dĩ: “Là ta đâm Vãn Nhĩ Nhĩ, nhưng ta không giết Ân Chu. Cho dù ông muốn giết ta để vơi đi nỗi đau mất con thì cũng cần thẩm vấn trước đã.”
Ta đứng lên, muốn phủi hết dơ bẩn trên người, nhưng làm sao có thể lau sạch vết máu dính trên váy áo.
Ta vô thức sờ lên hông, kiếm Ngọc Long không còn ở đó nữa, lòng bàn tay dần trở nên nhớp nháp.
Đội tuần tra muốn bắt ta đi. Ta cũng rất hợp tác đeo xiềng xích linh lung mà phái Phù Lăng dùng cho tội nhân. Sau khi đeo nó, tu vi của ta bị phong ấn, mỗi bước tựa như đi trên mũi dao.
Phái Phù Lăng về đêm lần lượt thắp đèn sáng tỏ. Sảnh hỏi tội đã đóng kín từ lâu của điện Nam Huyền nay lại mở ra vì ta.
Điện chủ của điện Nam Huyền là một bà lão. Bà ấy ngồi trên ghế cao, lạnh lùng nhìn ta.
Chân nhân Ngọc Dĩ ngồi bên cạnh bà ấy, kìm nén nỗi đau khó mà nguôi ngoai.
Phong chủ của các đỉnh thuộc phái Phù Lăng đã có mặt. Thật hiếm thấy những vị này quy tụ chỉnh tề như vậy.
Sư phụ của ta, cũng là chưởng môn, hiện không có ở đây. Ông ấy và nhị sư huynh đã rời môn phái hơn một tháng nay.
Ta quỳ trong sảnh đường. Các đệ tử nghe tiếng chuông triệu tập cũng lần lượt trầm mặc bước vào. Ta cảm nhận được sự chán ghét, phẫn nộ lẫn chỉ trích, buộc tội ta ẩn dưới sự trầm mặc của họ.
Mọi người đều biết rõ, nếu cãi vã nhỏ nhặt trong môn phái cũng không sao, nhưng nếu thật sự vi phạm môn quy, giết người trút giận bất chấp tình sư môn thì chẳng khác nào nghịch đồ.
Thi thể của Ân Chu được đặt phía trước ta, mặt đã tím xanh, trên cổ có dấu bị siết màu tím đậm, rõ ràng là bị siết cổ đến chết.
Vãn Nhĩ Nhĩ không có mặt, vì bị thương nghiêm trọng nên được đưa đến chỗ phong chủ của đỉnh thứ ba am hiểu về dược lý chữa trị.
Một đệ tử cầm kiếm bước tới. Ánh sáng lưu chuyển trên kiếm Ngọc Long lúc này cũng nhuốm màu chết chóc. Máu bên trên đã đông cứng lại như thể tội lỗi không thể gột rửa.
Đệ tử dâng kiếm lên cho điện chủ điện Nam Huyền, quỳ xuống bẩm báo: “Thanh kiếm ghim trên ngực Vãn sư muội đã được lấy ra, chính là kiếm Ngọc Long của thiếu chủ châu Lý Ngư. Vãn sư muội bị thương nặng vẫn đang hôn mê.”
Ta đã kể lại chi tiết tình hình lúc đó một lần, nói rằng ta cảm thấy Ân Chu có biểu hiện kỳ lạ nên mới theo hắn đi vào rừng cấm. Thấy hắn bị ma tu bắt giữ, mạng sống bị đe dọa nên ta mới rút kiếm cứu người, chỉ là ta không biết mình trúng phải tà thuật lúc nào, do đó nhận nhầm Vãn Nhĩ Nhĩ thành ma tu, một kiếm đâm vào ngực nàng.
Nhưng điện chủ điện Nam Huyền lại nói ở hiện trường không có ma khí, cũng không có ai khác, những lời ta nói rõ là hoàng đường, mọi chứng cứ đều đổ dồn về phía ta.
Nhân chứng duy nhất là Vãn Nhĩ Nhĩ còn đang hôn mê, bây giờ ta có nói gì cũng không thể biện hộ cho mình.
Điện chủ điện Nam Huyền lên tiếng hỏi: “Đệ tử quan môn của chưởng môn, Triều Châu?”
Ta đáp lại: “Có.”
Bà ấy chậm rãi hỏi tiếp: “Thanh kiếm đâm vào ngực Vãn Nhĩ Nhĩ là kiếm của ngươi?”
Ta trả lời: “Đúng.”
Bà ấy lại hỏi: “Ngươi ghen ghét Vãn Nhĩ Nhĩ vì nàng đã đánh bại ngươi khỏi đài Đăng Vân trong vòng mười chiêu, ngươi cũng bất mãn với Ân Chu vì hắn đã gây hấn với ngươi nhiều lần có đúng không?”
Ta khàn giọng đáp: “Đúng.”
Ta cũng hơi ngạc nhiên, khóe mắt có chút ươn ướt, hóa ra nhiều năm như vậy, ta đã có thể dễ dàng thừa nhận hai chữ ghen ghét. Ta ghen ghét nàng có tư chất xuất chúng, ghen ghét vì Tạ Như Tịch động lòng với nàng, ghen ghét nàng có thể cướp đi châu Lý Ngư của ta. Những uất hận suốt bao năm tháng trong lòng ta chợt tan biến giống như đã nghĩ thông suốt chuyện gì đó. Ta ngơ ngác ngẩng đầu nhìn lên.
Điện chủ điện Nam Huyền nhắm mắt lại, vừa thương xót cũng vừa chán ghét, nhấn mạnh từng chữ: “Triều Châu sát hại đồng môn, trước đoạn gân cốt, sau phế tu vi, tiếp theo chờ chưởng môn quay về đưa ra phán quyết cuối cùng.”