Dịch: Sae Krs
***
Trên tấm bảng đen có không ít mẩu báo được dán lên bằng nam châm, nếu nhìn kỹ sẽ thấy nội dung rất đa dạng.
Cái gì mà ngọc bội Song Ngư ở Lop Nur, khám phá mới nhất ở Bermuda, dã nhân Thần Nông Giá, quái vật hồ Loch Ness… và những ‘bí ẩn chưa được giải đáp’ khác thường thấy trên TV đều nằm trong số đó.
Còn lại là rất nhiều chuyện dị sự chưa từng nghe thấy, thậm chí có cái chỉ là ảnh chụp màn hình trên mạng.
Phần lớn là làng nào đó phát hiện thi thể ngàn năm còn tươi như người sống, nơi nào đó nghe đồn có người ngoài hành tinh linh tinh.
Hơn chín trăm năm trước, không có thứ gọi là ‘mạng’ trong thế giới loài người, và về cơ bản, tất cả thông tin đều được truyền tải bằng nhân lực.
Nhưng kể từ khi Internet rút ngắn khoảng cách của thế giới, cuộc sống của Triệu Viêm không còn nhàm chán như trước.
Lang thang khắp nơi, khám phá những bí ẩn chưa được giải đáp… so với những ngày trước đó cứ cách vài năm phải trốn đông trốn tây càng thú vị hơn.
Hầu hết các mẩu báo trên bảng đen đều được hắn đánh dấu bên dưới, một số được tìm ra và được chứng minh là hoàn toàn nhảm nhí.
Nhưng lúc này, hiển nhiên hắn không có hứng thú tiếp tục nghiên cứu mấy thứ đó.
Triệu Viêm tiện tay mở máy tính ra, bắt đầu viết mấy từ khóa trên bảng đen bên cạnh: ‘áo đen, thập tự giá, tiếng Pháp’.
Đây là đặc điểm của đám người tập kích, ý đồ chặn giết hắn một năm trước.
Ngoài mấy điều đó ra, hắn thật sự không nhớ được cái gì cụ thể hơn.
Trên máy tính có cơ sở dữ liệu do chính hắn xây dựng.
Mặc dù Triệu Viêm không hay quên, nhưng trí nhớ của hắn không khác lắm so với người bình thường.
Trong ký ức sinh mệnh hơn một ngàn năm, phần lớn hình ảnh đã sớm bị lãng quên, cho nên hắn đã có thói quen dùng từ ngữ và tranh vẽ làm ‘bản ghi nhớ’.
Sau này có máy tính, hắn đã sắp sếp lại tất cả và nhập vào cơ sở dữ liệu.
Nếu kẻ địch không nói hai lời đã trực tiếp xuống tay giết chết, vậy rất có thể là cừu địch hắn từng trêu chọc trước kia, cho nên tìm manh mối trong trí nhớ có lẽ sẽ tìm được chút gì đó.
Nhưng sau khi nhập một vài từ khóa, kết quả truy vấn không lý tưởng lắm: vào thế kỷ 12, hắn đã đến Pháp, nhưng lúc đó châu Âu thực sự rất hỗn loạn, sau khi Saladin chết, hắn cũng đã tham gia cuộc ‘Thập tự chinh’ thứ tư, vì vậy kết quả tìm kiếm của hắn chủ yếu có liên quan đến trải nghiệm này.
Nhưng mà đến bước này, Triệu Viêm lại không thể nào tiếp tục chia nhỏ nữa.
Ánh mắt đảo qua từng nội dung ghi chép vụn vặt, vị học đồ pháp sư Tử Linh này dần dần nhíu mày.
Kết quả phù hợp với ba manh mối này quá nhiều, bởi vì năm đó tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thống, bất kể là Chính thống giáo hay Kitô giáo đều dùng thập tự giá, thậm chí rất nhiều giáo phái nhỏ cũng vẽ hoa văn giống nhau trên quần áo của họ.
Mà quần áo màu đen cũng khó có thể tìm kiếm như một manh mối hữu ích.
Nếu đối phương là một tổ chức nào đó đến trả thù, vậy nó sẽ liên quan đến ai?
Triệu Viêm nhíu mày nhìn về phía danh thiếp của Đàm Bình.
Loại chuyện này phải dùng đến bộ máy nhà nước thì mới đáng tin cậy hơn sao?
Khi Triệu Viêm đang buồn rầu vì tìm kiếm manh mối, thì Triệu Phổ, sau khi trở về từ Dã Tam Pha đã bệnh không dậy nổi.
Hiển nhiên cậu ta càng quan tâm đến mạng nhỏ của mình.
Kể từ đêm ‘gặp ma’ đó, Triệu Phổ bắt đầu sốt nhẹ liên tục.
Đến bệnh viện tiêm thuốc hạ sốt, mặc dù có tác dụng một đêm, nhưng chắc chắn đến ngày hôm sau lại sẽ tái phát.
Các xét nghiệm máu và nước tiểu đều bình thường, chỉ có bởi vì cả ngày sốt nhẹ mà cả người mệt nhừ, ngay cả nói chuyện cũng không có sức...!
Triệu Phổ cũng không dè dặt với cha mẹ, cậu vừa kể chuyện bản thân gặp ma thì mẹ cậu đã bị dọa khóc thành tiếng, đồng thời vội vàng gọi điện thoại cho chồng là Triệu Vượng Sinh đang xã giao với người khác.
Triệu Vượng Sinh năm nay bốn mươi chín tuổi, bụng tướng quân, ở trên bàn rượu có thể nói là lão tướng sa trường.
Bản thân ông là tổng giám đốc một dự án của một công ty bất động sản, quyền lực thật sự không nhỏ, xã giao càng không ít.
Trước kia ông cũng chỉ là một nhà thầu mỗi ngày chạy tới chạy lui ở công trường, nhưng vì dám đánh dám liều mạng, tửu lượng lại tốt, từ văn hóa tiểu học làm đến bước trước mắt.
Ông tự nhận bản thân là ‘tấm gương truyền cảm hứng’, cả ngày ở trên bàn rượu nói nhiều nhất chính là “Đám cháu trai đọc sách kia còn không phải làm việc cho tôi sao?”
Nhưng quay đầu, ông lại vô cùng kiêu ngạo đối với đứa con trai học đại học của ông.
Dù chỉ là đậu đợt hai, nhưng mỗi khi có người nhắc đến đều sẽ khoe khoang: “Con trai lão Triệu của tôi tốt xấu gì cũng là một sinh viên đại học!”
Bởi vậy ông rất quan tâm đến đứa con trai duy nhất này.
Sau khi nhận được điện thoại của vợ, ông lập tứ đứng lên, không để ý đến ánh mắt kinh ngạc của một đám lãnh đạo ngân hàng, ra khỏi phòng gọi một cuộc điện thoại.
“Xin chào, tôi là Triệu Vượng Sinh, tôi muốn xin đại sư Ba Kỳ giúp đỡ...”
“Không thành vấn đề, tôi sẽ chuẩn bị tiền...”
“Cảm tạ đại sư Ba Kỳ nhân từ!”
Ngày hôm sau, Triệu Phổ xin nghỉ ở nhà, và nhận lấy tấm thẻ vàng lấp lánh từ tay cha.
“Đây là bùa hộ mệnh mà đại sư Ba Kỳ chuyên môn gia trì, đeo lên người, tất cả ác linh sẽ lui tán!”
Triệu Phổ đã bị sốt hai ngày nay, thuốc hạ sốt hạ sốt đã không còn hiệu quả lớn, thuốc chống viêm lại càng uống giống như không uống.
Chủ yếu nhất là cậu gần như không dám ngủ.
Vừa nhắm mắt lại, bóng người màu trắng kia lại đứng ở trước mặt không ngừng thì thầm, có khi thậm chí còn lấy tay bóp cổ cậu.
Sau khi bừng tỉnh trong cảm giác nghẹt thở và lạnh lẽo, sắc mặt Triệu Phổ càng thêm trắng bệch.
Phòng ngủ của cậu luôn được kéo rèm, gương cũng bị khóa lại, thậm chí ngay cả ly thủy tinh ban đầu cũng bị đổi thành cốc sứ mờ...!Bởi vì chỉ cần là nơi có thể phản chiếu hình ảnh, Triệu Phổ đều có thể nhìn thấy bóng người màu trắng đứng bên cạnh.
Đến bây giờ, ngay cả điện thoại di động của cậu cũng không dám nhìn, bởi vì khi nằm trên giường nhìn vào màn hình, trong màn hình lại phản chiếu bàn tay trắng bệch đang đặt trên vai cậu...!
Loại cảnh tượng này đã khiến tinh thần Triệu Phổ nhanh chóng suy nhược, cho nên sự xuất hiện của ‘bùa hộ mệnh’ này giống như cọng rơm cứu mạng.
Mặc kệ có tác dụng hay không, cậu cũng phải nhanh chóng ôm lấy, xem như bảo bối đeo mà vào cổ.
“Cha...!thứ này có tác dụng không?”
Triệu Phổ nhìn trái nhìn phải, không cảm thấy bản thân có gì khác thường.
Triệu Vượng Sinh lại trừng mắt nhìn đứa con trai: “Sao có thể vô dụng? Cha mày tốn hơn ba trăm nghìn tệ mới mua được đó!”
Giống như hầu hết các nhà giàu mới nổi, Triệu Vượng Sinh có thói quen đo lường giá trị của các món đồ bằng tiền, bởi vì triết lý của ông là ‘tiền có thể mua được tất cả mọi thứ’.
Mặc kệ đồ tốt hay đồ xấu, chỉ cần tiêu tiền đúng chỗ, vậy chắc chắn sẽ không sai.
Hiển nhiên Triệu Phổ cũng kế thừa giá trị quan như vậy, cậu im lặng nói với người giúp việc trong nhà: “Dì Lưu, lấy cho tôi một tấm gương tới đây.”
Mặc dù không phải là nhà cao cửa rộng gì, nhưng cậu ta diễn loại ‘đại thiếu gia’ này lại rất quen thuộc.
Dì Lưu gật đầu khom lưng lấy ra một cái gương trang điểm hình tròn, Triệu Phổ hít sâu một hơi, cắn răng nhìn qua, lập tức phát hiện bốn phía thật sự không có bất kỳ dấu hiệu nào của nữ quỷ.
Triệu Phổ đưa tay sờ sờ đầu, trán sốt nhẹ cũng khôi phục nhiệt độ bình thường.
Cậu dùng sức vỗ vỗ mặt, hưng phấn nói: “Xong rồi! Tốt quá! Quả nhiên đại sư rất lợi hại!”
Triệu Vượng sinh vui vẻ nở nụ cười, người vợ Lý Dung vẫn luôn lo lắng ở bên cạnh thì ôm ngực: “Không có việc gì là tốt rồi...!không có việc gì là tốt rồi.
Đây thật đúng là tạo nghiệt mà...”
Dường như Triệu Phổ đã hoàn toàn sống lại, lập tức chuẩn bị trở lại trường học, ở nhà nhiều ngày như vậy cũng sắp mốc meo.
Mới sáng sớm cậu đã muốn nhanh chóng hẹn Hàn Kỳ đi ăn tối.
Giống như cha cậu, Triệu Phổ cảm thấy đối với loại cô bé xuất thân từ gia đình nghèo khó này, chỉ cần đập chút tiền thì việc lên giường không thể đơn giản hơn.
Ra khỏi nhà, Triệu Phổ mở chiếc C63 AMG, vừa huýt sáo vừa thắt dây an toàn, sau đó mới ấn nút khởi động.
Theo thói quen, cậu nhìn lướt qua gương chiếu hậu thì đột nhiên sửng sốt.
Triệu Phổ không nhìn thấy nữ quỷ áo trắng đã quấn lấy cậu nhiều ngày nay, ngược lại nhìn thấy một đoàn sương đen như mực và đôi mắt màu đỏ lóe lên rồi biến mất trong làn sương.
Ngồi ở ghế lái, Triệu Phổ cảm thấy mồ hôi lạnh trên trán chảy ròng ròng.
Cậu dụi dụi mắt, lấy hết dũng khí nhìn lại một lần nữa, nhưng mọi thứ đã trở lại bình thường.
“Rốt cuộc có chuyện gì vậy trời...”
Sáng sớm, Triệu Viêm ngồi dậy từ trên tấm chiếu tatami kiểu Nhật của mình.
Sau khi hoạt động thân thể đơn giản một chút, hắn tiện tay lấy thanh kiếm samurai từ giá trong phòng khách rồi tùy ý bắt đầu luyện tập chém và chặn.
Động tác của hắn kéo dài mà mạch lạc, không có sự áp chế của một trận diễn võ bình thường, càng không có tiếng ‘Hô ha’ hét lên một cách bừa bãi.
Phòng khách không lớn vốn không có bao nhiêu không gian để phát huy, nhưng thanh katana do Suishinshi Masahide tự mình chế tạo lại vững vàng xẹt qua trên bề mặt những văn vật thậm chí có thể nói là quốc bảo, lúc gần nhất, lưỡi kiếm chỉ cách vài cm.
‘Kiếm thuật’ Nhật Bản ngày nay được chia thành rất nhiều trường phái, cái gì mà trường phái Toyama, trường phái Nodachi Jigen đủ kiểu, tên thì dài dòng, mỗi trường phái đều có truyền thừa từ mấy chục đến hơn trăm năm.
Nhưng sự khác biệt lớn nhất giữa bộ đao pháp này của Triệu Viêm với những trường phái đó là: hắn không có bất kỳ động tác nào dùng để thể hiện tư thế hoặc lễ nghi.
Khi xong hết mọi thứ, cổ tay Triệu Viêm rung lên, động tác ‘chấn huyết’ lại đột nhiên có thêm không ít sát khí, bởi vì động tác này là động tác mà các chiến binh chỉ dùng để rũ bỏ vết máu trên lưỡi kiếm..