Chương 9
Khám phá
Tôi lái xe thật nhanh qua khu I-10 khi mặt trời lặn xuống sau lưng tôi. Tôi không nhìn thấy gì nhiều ngoại trừ những đường trắng và vàng trên vỉa hè, và chiếc biển báo lớn màu xanh như thường lệ chỉ đường cho tôi tiến xa hơn về phía đông. Bây giờ thì tôi đang vội. Mặc dù vậy tôi không chắc chính xác thì tôi vội để làm gì. Tôi cho là để thoát khỏi chuyện này. Thoát khỏi nỗi đau, thoát khỏi nỗi buồn, thoát khỏi sự đau đớn vì mất mát và những tình yêu vô vọng. Như thế có nghĩa là từ bỏ thể xác này ư? Tôi không thể nghĩ được câu trả lời nào khác. Tôi sẽ vẫn hỏi Người hàn gắn những câu hỏi của tôi, nhưng có vẻ như là tôi đã ra quyết định. Kẻ từ bỏ. Kẻ bỏ cuộc. Tôi kiểm tra những từ đó trong đầu mình, cố làm quen với chúng.
Nếu tôi có thể tìm ra một cách, tôi sẽ giữ Melanie tránh xa khỏi bàn tay của Người truy tìm. Việc đó sẽ rất khó. Không, việc đó là không thể.
Tôi sẽ cố.
Tôi hứa với cô ấy điều này, nhưng cô ấy không nghe. Cô ấy vẫn còn đang mơ màng. Từ bỏ, tôi nghĩ, giờ đây đã là quá trễ để mong từ bỏ là giúp đỡ.
Tôi cố đứng ngoài cái hẻm núi màu đỏ trong đầu cô ấy, nhưng tôi cũng có ở đó. Bất kể tôi cố gắng thế nào để nhìn thấy những chiếc xe phóng vọt lên bên cạnh tôi, những chuyến tàu siêu tốc lướt về hướng cảng, một vài đám mây đẹp đẽ trôi qua trên đầu, tôi vẫn không thể nào hoàn toàn thoát ra ngoài những giấc mơ của cô ấy được. Tôi ghi nhớ gương mặt của Jared từ hàng ngàn góc nhìn khác nhau. Tôi nhìn Jamie vụt lớn lên, lúc nào cũng da bọc xương. Cánh tay tôi nhức nhối vì muốn cả hai bọn họ - không, cảm giác đó còn mạnh hơn cả nhức nhối, như cứa dao vào lòng và bạo liệt. Cảm giác đó không thể nào chịu đựng nổi. Tôi phải thoát ra. Tôi lái xe gần như mù quáng dọc con đường cao tốc hai làn xe hẹp. Dù gì đi nữa hoang mạc vẫn đơn điệu và chết chóc hơn bao giờ hết. Bằng phẳng hơn, lợt lạt hơn. Tôi sẽ đến được Tucson trước giờ ăn tối rất lâu. Bữa tối. Tôi đã không ăn gì cả ngày nay, và dạ dày tôi sôi lên khi tôi nhận ra điều đó. Người truy tìm sẽ chờ tôi ở đó. Dạ dày tôi đã cuộn lên rồi, cơn đói ngay lập tức bị thay thế bởi sự nôn nao. Chân tôi tự động hạ ga.
Tôi kiểm tra bản đồ trên ghế hành khách. Tôi sẽ nhanh chóng tới một trạm dừng chân nhỏ ở một nơi tên là Đỉnh Picacho. Có lẽ tôi sẽ dừng lại để ăn gì đó ở đấy. Tránh việc phải nhìn mặt Người truy tìm trong một khoảng thời gian quí giá.
Khi tôi nghĩ về cái tên lạ lẫm này – Đỉnh Picacho – có một phản ứng kì lạ từ Melanie. Tôi không thể gọi tên nó ra. Cô ấy đã từng đến đây trước đó chăng? Tôi tìm kiếm kí ức, một dấu hiệu hay một mùi vị liên quan, nhưng không tìm thấy gì. Đỉnh Picacho. Một lần nữa, có một chút xíu quan tâm mà Melanie dập đi. Hai từ này có nghĩa gì với cô ấy? Cô ấy rút lui vào những phần kí ức xa xôi, tránh gặp tôi.
Việc này khiến tôi tò mò. Tôi lái xe nhanh hơn một chút, tự hỏi liệu nhìn thấy nơi chố ấy có gợi lên điều gì hay không.
Một đỉnh núi cô độc – không rộng lắm so với những núi khác, nhưng vượt hẳn lên những ngọn đồi thấp, gồ ghề ở gần tôi – đã bắt đầu hiện ra ở đường chân trời. Nó có một hình dạng không bình thường, rất đặc trưng. Melanie nhìn nó hiện rõ dần khi chúng tôi đi tới, giả vờ không chú ý gì đến nó.
Tại sao cô ấy lại giả vờ không quan tâm trong khi rõ ràng là có? Tôi thấy bị làm phiền vì sức mạnh của cô ấy khi tôi cố tìm ra sự thật. Tôi không thể nhìn được bất kì đường nào quanh bức tường trống rỗng cũ. Tôi cảm thấy nó dầy hơn cả thường lệ, mặc dù tôi nghĩ nó gần như đã biến mất.
Tôi cố lờ cô ấy đi, không muốn nghĩ về việc đó – rằng cô ấy đang trở nên mạnh hơn. Thay vào đó tôi nhìn đỉnh núi, lần theo hình dáng của nó trên nền trời nhạt màu, nóng nực. Có cái gì đó quen thuộc về nó. Cái gì đó mà chắc chắn là tôi nhận ra, thậm chí cả khi tôi khá chắc là cả hai chúng tôi chưa từng bao giờ tới đây.
Gần như là cô ấy đang cố đánh lạc hướng tôi, Melanie nhảy vào một kí ức sống động về Jared, khiến tôi bất ngờ.
Tôi rùng mình trong áo khoác, căng mắt ra để nhìn vào ánh sáng chói lòa của vầng dương đang lặn đằng sau rặng cây dầy, lởm chởm. Tôi tự nói với mình rằng trời không lạnh như tôi nghĩ. Chỉ là cơ thể tôi không quen với cái lạnh này.
Hai bàn tay đột ngột ở trên vai tôi không làm tôi giật mình, mặc dù tôi sợ cái nơi xa lạ này và tôi không hề nghe thấy tiếng bước chân lặng lẽ của anh. Sức nặng của chúng quá quen thuộc.
“Em dễ bị ú òa quá nhỉ.”
Ngay cả lúc này, vẫn có nụ cười trong giọng nói của anh.
“Em nhìn thấy anh đến trước cả khi anh bước bước đầu tiên,” tôi nói mà không quay lại. “Em có mắt ở đằng sau đầu đấy.”
Những ngón tay ấm áp vuốt từ thái dương tới cằm tôi, kéo theo lửa trên da tôi.
“Trông em như là một nữ thần rừng trốn ở đây trong mấy cái cây vậy,” anh thì thầm vào tai tôi. “Một trong số chúng. Quá xinh đẹp đến nỗi em chắc phải là nhân vật tưởng tượng.”
“Chúng ta nên trồng nhiều cây hơn xung quanh khoang xe.”
Anh cười khúc khích, và âm thanh ấy làm mắt tôi nhắm lại và môi giãn ra thành một nụ cười.
“Không cần thiết,” anh nói. “Lúc nào trông em cũng thế.”
“Lời người đàn ông cuối cùng trên Trái đất nói với người phụ nữ cuối cùng, trong đêm ly biệt.”
Nụ cười của tôi nhạt đi khi tôi nói. Những nụ cười không thể giữ được trong ngày hôm nay.
Anh thở dài. Hơi thở của anh trên má tôi rất ấm nếu so với cái lạnh của không khí trong rừng.
“Jamie sẽ buồn bực với cái so sánh ấy.”
“Jamie vẫn còn là một cậu bé. Làm ơn, xin anh giữ nó an toàn.”
“Anh thỏa thuận với em nhé,” Jared đề nghị. “Em giữ mình an toàn, và anh sẽ làm hết sức mình. Nếu không, không thỏa thuận gì hết.”
Chỉ là một câu đùa, nhưng tôi không thể bỏ qua nó. Một khi chúng tôi đã chia lìa, chẳng có sự đảm bảo nào hết. “Bất kể chuyện gì xảy ra,” tôi kiên quyết.
“Không có gì xảy ra cả. Đừng lo.” Những lời nói đó gần như vô nghĩa. Một nỗ lực vô ích. Nhưng giọng nói của anh thì đáng nghe, bất kể thông điệp là gì.
“Okay.”
Anh xoay tôi lại để đối mặt với anh, và tôi dựa trán vào ngực anh. Tôi không biết phải so sánh mùi hương của anh với cái gì. Nó là của riêng anh, một mùi hương độc nhất vô nhị của cây bách xù hay làn mưa sa mạc.
“Em và anh sẽ không đánh mất nhau,” anh hứa. “Anh sẽ luôn luôn tìm lại được em.” Jared là thế, anh không thể hoàn toàn nghiêm chỉnh hơn một hay hai nhịp tim. “Bất kể em trốn giỏi đến đâu. Không ai đánh bại được anh trong trò trốn tìm.”
“Anh sẽ cho em đếm từ 1 đến 10 chứ?”
“Không nhìn lén.”
“Đồng ý,” tôi lẩm bẩm, cố giấu thực tế là cổ họng tôi đã đầy ứ nước mắt.
“Đừng sợ. Em sẽ ổn thôi. Em khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và thông minh.” Anh cũng đang cố thuyết phục chính mình nữa.
Tại sao tôi lại rời bỏ anh? Phải may mắn lắm Sharon mới vẫn còn là người.
Nhưng khi tôi nhìn thấy khuôn mặt chị ấy trên bản tin, tôi đã rất chắc chắn.
Nó chỉ là một chuyến ăn trộm bình thường, một trong hàng ngàn chuyến. Rất bình thường nên khi chúng tôi cảm thấy đủ biệt lập, an toàn, chúng tôi đã bật ti vi lên trong lúc dọn sạch cái phòng để đồ ăn và tủ lạnh. Chỉ để xem dự báo thời tiết thôi; chẳng có gì nhiều để giải trí với những bản báo cáo mọi-thứ-đều-hoàn hảo buồn chán đến chết vẫn được đưa lên thành tin tức giữa những con kí sinh trùng đó. Thứ đập vào mắt tôi chính là màu tóc – một ánh màu đậm gần như đỏ hồng mà tôi chỉ từng nhìn thấy trên một người mà thôi.
Tôi vẫn còn có thể trông thấy cái nhìn trên mặt chị khi chị bị dính vào góc màn hình. Cái nhìn ấy nói rằng, tôi đang cố thành vô hình đây; đừng có nhìn vào tôi. Chị ấy đi bộ không đủ chậm, phải ráng sức quá nhiều để giữ nhịp bước bình thường. Cố gắng một cách tuyệt vọng để hòa mình vào đám đông.
Không có một kẻ cướp thân xác nào lại cảm thấy cần làm thế.
Sharon đang làm cái gì khi đi lòng vòng trong một thành phố rộng lớn như Chicago mà vẫn còn là con người? Còn có những người khác không? Cố tìm chị ấy dường như không phải là một sự lựa chọn thực sự. Dù chỉ có một cơ hội là có những con người khác ngoài đó, thì chúng tôi cũng phải tìm được họ.
Và tôi phải đi một mình. Sharon sẽ chạy trốn khỏi bất kì ai ngoài tôi ra – à, chị ấy sẽ chạy khỏi tôi nữa, nhưng có lẽ chị sẽ dừng lại đủ lâu để tôi giải thích. Tôi chắc rằng tôi biết vị trí bí mật của chị ấy.
“Còn anh?” tôi hỏi bằng giọng nặng trịch. Tôi không chắc về mặt thể xác tôi có thể chịu đựng được cuộc chia tay tương lai mù mịt này. “Anh sẽ an toàn phải không?”
“Cả địa ngục lẫn thiên đàng đều không thể ngăn cách anh khỏi em được, Melanie.”
Không cho tôi một cơ hội để lấy lại hơi thở hay gạt nước mắt, cô ấy lại ném một kí ức khác vào tôi.
Jamie nằm cuộn tròn dưới cánh tay tôi – nó không còn vừa vặn như trước nữa. Nó phải gập người lại, chân cẳng dài ngoằng, gày guộc của nó phải co quắp lại. Cánh tay nó đang bắt đầu trở nên rắn và gân guốc, nhưng trong giây phút này nó chỉ là một đứa bé, đang run rẩy, gần như co rúm lại. Jared đang chuẩn bị xe. Jamie sẽ không để lộ ra sự sợ hãi này nếu anh đang ở đây. Jamie muốn trở nên gan dạ, giống như Jared.
“Em sợ,” thằng bé thì thào.
Tôi hôn mái tóc tối màu của nó. Thậm chí cả khi ở đây giữa mùi nhựa cây nồng nặc, nó vẫn có mùi như bụi và mặt trời. Cảm giác như nó là một phần của tôi, và chia tách chúng tôi sẽ khiến cho chỗ da nối liền chúng tôi bị rách toạc ra.
“Ở cùng anh Jared em sẽ ổn thôi.” Tôi phải tỏ ra dũng cảm, cho dù tôi có cảm thấy như vậy hay không. “Em biết. Em sợ cho chị. Em sợ chị sẽ không quay lại. Như Bố.”
Tôi nhăn mặt. Khi Bố không quay lại – mặc dù cơ thể của bố thì thực ra là có, cố dẫn đường cho những Kẻ truy tìm tới chỗ chúng tôi – đó là nỗi kinh hoàng khủng khiếp nhất và nỗi sợ lớn nhất và sự đau đớn thảm khốc nhất mà tôi từng cảm thấy. Lỡ như tôi lại làm điều đó với Jamie thì sao?
“Chị sẽ về. Chị luôn luôn trở về mà.”
“Em sợ,” thằng bé nói lần nữa.
Tôi phải trở nên dũng cảm.
“Chị hứa mọi chuyện sẽ ổn cả. Chị sẽ về. Chị hứa đấy. Em biết là chị sẽ không nuốt lời, Jamie. Không phải với em.”
Cú gật đầu thật chậm. Nó tin tôi. Nó trông cậy vào tôi.
Và một kí ức khác:
Tôi có thể nghe thấy tiếng chúng ở tầng dưới. Chúng sẽ tìm ra tôi trong vòng vài phút nữa, hay vài giây nữa. Tôi nguệch ngoạc vài chữ trên mảnh báo bẩn thỉu. Chúng gần như không đọc nổi, nhưng nếu anh tìm thấy chúng, anh sẽ hiểu: Không đủ nhanh. Yêu anh và yêu Jamie. Đừng về nhà.
Tôi không chỉ làm tan nát trái tim họ, tôi còn cướp mất cả nơi trú ẩn của họ nữa. Tôi hình dung hẻm núi thân thương nhỏ bé của chúng tôi bị bỏ hoang mãi mãi, giống như bây giờ. Hay là nó sẽ không bị bỏ hoang, mà thành một nấm mồ. Tôi nhìn thấy thân thể tôi dẫn đường cho những Kẻ truy tìm tới đó. Khuôn mặt tôi mỉm cười khi chúng tôi bắt được họ ở đó…
“Đủ rồi,” tôi nói to lên, níu mình ra khỏi cơn đau xé ruột gan. “Đủ rồi! Tôi hiểu rồi! Giờ đây tôi cũng không thể nào sống mà không có họ. Cô hài lòng chưa? Bởi vì tôi vẫn chẳng có lựa chọn nào hết, phải không? Chỉ có một thôi – thoát khỏi cô. Cô có muốn để Người truy tìm vào bên trong cô không? Grừ!” Tôi giật người lại trước cái ý nghĩ ấy như thể tôi mới là người phải chứa đựng cô ta.
Có một lựa chọn khác, Melanie nhẹ nhàng nghĩ.
“Thật sao?” Tôi hỏi với sự chua cay rõ ràng. “Chỉ tôi xem nào.” Nhìn mà xem.
Tôi vẫn đang nhìn chằm chằm vào đỉnh núi. Nó chiếm đóng toàn bộ khung cảnh, một ngọn núi chọc thẳng lên trời bao quanh là những vùng đất phẳng đầy bụi rậm. Mối quan tâm của cô ấy kéo mắt tôi lên trên những đường viền, di chuyển theo cái đỉnh có hai ngạnh không đều nhau ấy.
Một đường vòng thấp, nhấp nhô, rồi tới một cú rẽ ngoặc lên hướng bắc, một cú ngoặt đột ngột trở lại theo đường khác, xoay ngược lên hướng bắc theo một đường dài hơn, rồi đột ngột đổ xuống phía nam rồi trải ra thành một đường vòng khác nông hơn.
Không phải là bắc và nam, cái cách mà tôi vẫn luôn nhìn các đường kẻ trong những kí ức tản mát của cô ấy; mà là lên và xuống.
Mặt nghiêng của một đỉnh núi. Những đường kẻ dẫn tôi tới chỗ Jared và Jamie. Đó là đường kẻ đầu tiên, điểm khởi đầu.
Tôi có thể tìm thấy họ.
Chúng ta có thể tìm thấy họ, cô ấy sửa lời tôi. Cô không biết hết các chỉ dẫn. Cũng như với cái khoang xe ấy, tôi không bao giờ cho cô tất cả mọi thứ.
“Tôi không hiểu. Nó dẫn tới chỗ nào? Làm thế nào một ngọn núi lại chỉ đường cho chúng ta?” Mạch đập của tôi nhanh hơn khi tôi nghĩ về nó: Jared ở rất gần. Jamie, trong tầm tay với của tôi.
Cô ấy cho tôi xem câu trả lời.
“Chúng chỉ là những đường kẻ thôi. Và Bác Jeb chỉ là một ông già lẩm cẩm. Một người lập dị, như những người còn lại bên nhà nội em.” Tôi cố giật cuốn sách ra khỏi bàn tay Jared, nhưng anh dường như chẳng hề để ý đến nỗ lực của tôi.
“Một người lập dị, như mẹ của Sharon à?” anh hỏi, vẫn nghiền ngẫm những đường đánh dấu bằng bút chì đậm làm xấu cả bìa sau của cuốn anbom cũ. Đó là thứ duy nhất tôi đã không đánh mất trong suốt những lúc trốn chạy. Thậm chí cả những đường vẽ ngoằn nghèo điên rồ mà Bác Jeb để lại trên đó trong chuyến viếng thăm cuối cùng của ông giờ đây cũng trở nên giá trị.
“Hiểu rồi.” Nếu Sharon vẫn còn sống, thì đó là nhờ mẹ của chị, Bác Maggie dở người, người có thể đánh bại Bác Jeb để giành giải Người điên khùng nhất trong số những anh chị em điên khùng nhà Stryder. Cha tôi là người duy nhất ít bị ảnh hưởng bởi sự điên khùng của gia đình Stryder – ông không có một cái hầm bí mật ở sân sau hay bất kì cái gì như thế. Những người còn lại, anh chị em của ông, Bác Maggie, Bác Jeb và Chú Guy, là những nhà lý luận cường điệu hóa nhiệt tình nhất. Chú Guy đã chết trước khi những người khác biến mất trong suốt cuộc chiếm đóng, bởi một tai nạn ô tô bình thường đến nỗi thậm chí cả Maggie và Jeb cũng phải khó khăn lắm mới gán một âm mưu lên nó được.
Bố tôi luôn luôn trìu mến gọi họ là Những tên điên. “Bố nghĩ đã đến lúc chúng ta đi thăm Những tên điên rồi,” Bố sẽ tuyên bố như thế, và rồi Mẹ sẽ rên lên – đó là lý do tại sao những lời tuyên bố như thế rất hiếm khi xảy ra. Trong một trong những chuyến viếng thăm Chicago hiếm hoi, Sharon đã lén đưa tôi vào trong hầm trú ẩn của mẹ chị ấy. Chúng tôi đã bị tóm – người phụ nữ ấy đặt bẫy ở mọi nơi. Sharon đã bị mắng một trận nên thân, và mặc dù tôi đã thề là sẽ giữ bí mật, tôi có cảm giác rằng Bác Maggie có thể sẽ xây một cái hầm mới.
Nhưng tôi nhớ cái đầu tiên ở chỗ nào. Tôi hình dung ra bây giờ Sharon đang ở đó, sống cuộc sống của Anne Frank[3] ở trung tâm thành phố của kẻ thù. Chúng tôi phải tìm ra chị và đưa chị về nhà. Jared cắt ngang hồi tưởng của tôi. “Những người lập dị mới chính là những người sẽ sống sót. Họ là những người nhìn thấy Người anh em Lớn (Orkid: ý chỉ những người ngoài hành tinh) khi hắn ta không ở đó. Những người nghi ngờ phần còn lại của thế giới trước cả khi phần đó trở nên nguy hiểm. Những người đã có sẵn chỗ trú ẩn.” Jared mỉm cười, vẫn còn đang xem xét mấy đường kẻ. Rồi giọng anh nặng nề hơn. “Những người như cha anh. Nếu ông và các anh trai anh trốn đi thay vì chiến đấu… Ừm, họ sẽ vẫn còn đây.”
Giọng tôi dịu đi khi nghe thấy nỗi đau trong giọng anh. “Ok, em đồng ý với giả thuyết đó. Nhưng những đường kẻ này chẳng có nghĩa gì hết.”
“Nói lại cho anh nghe xem bác ấy nói gì khi bác vẽ chúng.”
Tôi thở dài. “Họ đang cãi nhau – Bác Jeb và bố em. Bác Jeb đang cố thuyết phục ông rằng có gì đó không ổn, bảo ông đừng tin bất kì ai. Bố cười vào chuyện đó. Jeb vớ lấy cuốn anbom từ một đầu bàn và bắt đầu… gần như là khắc mấy dòng đó vào bìa sau bằng một cây bút chì. Bố điên lên, nói mẹ em sẽ giận. Jeb nói, “mẹ của Linda gọi tất cả bọn chú tới thăm, phải không? Hơi lạ nhỉ, bất ngờ như thế? Hơi buồn một chút khi chỉ có Linda đi phải không? Nói cho chú biết nhé, Trev, tôi không nghĩ Linda sẽ phiền lòng gì nhiều lắm khi cô ấy trở về. Ồ, cô ấy có thể sẽ hành động như thế, nhưng chú sẽ không kể được sự khác biệt đâu.” Vào lúc đó nó có vẻ vô lý, nhưng những điều bác ấy nói đã thực sự làm bố em lo lắng. Ông yêu cầu Bác Jeb ra khỏi nhà. Lúc đầu Jeb không đi. Cứ cảnh báo chúng em không nên chờ tới khi quá trễ. Bác tóm lấy vai em vào kéo em vào lòng. “Đừng để chúng bắt cháu, cháu yêu,” bác thì thào. “Hãy đi theo những đường kẻ. Bắt đầu ở nơi bắt đầu và đi theo đường kẻ. Bác Jeb sẽ giữ một chỗ an toàn cho cháu.” Đó là lúc Bố đẩy bác ra khỏi cửa.” Jared lơ đãng gật đầu, vẫn còn nhìn. “Điểm bắt đầu… điểm bắt đầu… Nó phải có một ý nghĩa nào đó.”
“Có không? Chúng chỉ là những đường ngoằn nghoèo thôi, Jared. Nó không giống một cái bản đồ - thậm chí chúng còn không nối kết với nhau.”
“Mặc dù vậy có cái gì ấy về cái đầu tiên. Cái gì đó thân quen. Anh có thể thề rằng anh đã nhìn thấy nó ở đâu đó.”
Tôi thở dài. “Có lẽ bác ấy đã kể cho Bác Maggie. Có lẽ bà có những chỉ dẫn tốt hơn.”
“Có lẽ,” anh nói, và tiếp tục nhìn chằm chằm vào những đường ngoằn nghoèo của Bác Jeb.
Cô ấy kéo tôi lùi lại quá khứ, tới một kí ức cũ hơn rất, rất nhiều – một kí ức đã thoát ra khỏi đầu óc cô ấy trong một khoảng thời gian dài. Tôi ngạc nhiên khi nhận ra là cô ấy chỉ mới đặt hai kí ức ấy, cái cũ và cái mới, cạnh nhau gần đây thôi. Sau khi tôi đã ở đây. Đó là lý do tại sao những đường kẻ lại trượt ra khỏi sự kiểm soát chặt chẽ của cô ấy bất chấp thực tế rằng chúng là một trong những bí mật quí giá nhất của cô – bởi sự khẩn cấp trong khám phá của cô ấy.
Trong cái mảnh kí ức mờ ảo xa xưa này, Melanie ngồi trên lòng cha cô trước cùng một cuốn anbom – lúc ấy trông nó không tả tơi lắm – mở ra trong tay cô. Hai bàn tay cô nhỏ xíu, những ngón tay mũm mĩm. Tôi có cảm giác kì lạ khi nhớ lại mình là một đứa trẻ trong cái thể xác này.
Họ đang mở trang đầu tiên.
“Con có nhớ chỗ này là chỗ nào không?” Bố hỏi, chỉ vào một bức ảnh đen trắng cũ xì ở đầu trang. Bức ảnh trông có vẻ mỏng hơn những tấm khác, như thể nó đã bị mòn đi – dẹt hơn và dẹt hơn – vì một ông cố nào đó đã chụp nó.
“Đây là nơi khởi nguồn của dòng họ Stryder,” tôi trả lời, nhắc lại điều tôi đã được dạy.
“Đúng rồi. Đó là cái trang trại cũ của nhà Stryder. Con đã tới đó một lần rồi, nhưng bố cá là con chẳng nhớ gì. Bố nghĩ lúc đó con mới mười tám tháng tuổi.” Bố cười. “Nó đã thuộc về nhà Stryder từ những ngày đầu tiên…”
Rồi đến kí ức về chính bức ảnh ấy. Một bức ảnh cô đã nhìn vào hàng ngàn lần mà chẳng nhìn thấy gì. Nó màu đen trắng, đã bị bạc thành một màu xám. Một ngôi nhà gỗ nhỏ mộc mạc, ở rìa xa xa của một vùng đất trống; trong sân trước, một cái hàng rào gỗ[4]; một vài con ngựa đứng giữa hàng rào với ngôi nhà. Và rồi, đằng sau tất cả bọn chúng là cái mặt nghiêng sắc gọn, quen thuộc…
Có những chữ, một cái nhãn, được viết bằng bút chì trên cái rìa trắng của bức ảnh:
Trang trại nhà Stryder, 1904, trong bóng râm buổi sáng của…
“Đỉnh Picacho,” tôi khẽ nói.
Anh ấy cũng sẽ tìm ra nó, cho dù họ có không bao giờ tìm được Sharon. Tôi biết Jared sẽ gắn được chúng với nhau. Anh ấy thông minh hơn tôi, và anh ấy có bức ảnh; có thể anh ấy đã nhìn thấy câu trả lời trước tôi. Có thể anh đã đến rất gần…
Ý nghĩ đó khiến cô ấy tràn ngập khát khao và háo hức đến nỗi bức tường trống trong đầu tôi hoàn toàn biến mất. Giờ đây tôi đã nhìn thấy toàn bộ hành trình, nhìn thấy cuộc hành trình của cô ấy và Jared và Jamie ngang qua đất nước, luôn luôn là vào ban đêm trên những phương tiện không nổi bật do họ đánh cắp được. Họ mất hàng tuần trời. Tôi trông thấy nơi cô ấy bỏ họ lại trong khu rừng bên ngoài thành phố, quá khác so với cái hoang mạc trống rỗng mà họ đã quen thuộc. Khu rừng lạnh lẽo nơi Jared và Jamie sẽ lẩn trốn và chờ đợi có vẻ an toàn theo một vài cách nào đó – bởi vì những cành cây rậm rạp và khuất tầm nhìn, không như những cái cây còi cọc của sa mạc sẽ chẳng che giấu được gì – nhưng cũng nguy hiểm hơn bởi mùi và âm thanh xa lạ của nó.
Rồi đến cuộc chia tay, một kí ức đau đớn đến nỗi chúng tôi bỏ qua nó, co rúm lại. Rồi đến tòa nhà bỏ hoang mà cô ấy đã nấp trong đó, theo dõi ngôi nhà bên kia đường rình cơ hội. Cô ấy đã hi vọng sẽ tìm thấy Sharon ở đó, trốn tránh trong bốn bức tường hay trong một căn hầm bí mật.
Đáng lẽ tôi không nên cho cô thấy cái đó, Melanie nghĩ. Sự khẽ khàng trong giọng nói không thành lời của cô cho thấy cô rất mệt mỏi. Những kí ức trỗi dậy, những lời thuyết phục và dụ dỗ, đã làm cô kiệt sức. Cô sẽ nói với chúng nơi tìm được chị ấy. Cô cũng sẽ giết chị ấy.
“Phải,” tôi trêu cô thành tiếng. “Tôi phải thực hiện nghĩa vụ của mình.” Tại sao? Cô ấy lẩm bẩm, gần như buồn ngủ. Việc ấy thì mang lại niềm vui gì cho cô chứ?
Tôi không muốn tranh cãi với cô ấy, vì thế tôi không nói gì cả.
Ngọn núi phủ cái bóng lớn hơn lên trên đầu chúng tôi. Trong vài phút, chúng tôi sẽ đến chân núi. Tôi có thể nhìn thấy một một trạm nghỉ nhỏ với một cửa hàng tiện lợi và một quán ăn nhanh ở bên cạnh một chỗ trống bằng phẳng, đổ bê tông – một nơi cho những căn nhà di động. Lúc này chỉ có một vài căn, với cái nóng của mùa hè đang tới khiến mọi thứ đều khó khăn.
Giờ thì sao? Tôi tự hỏi. Dừng lại để ăn trưa muộn hay ăn tối sớm chăng? Đổ đầy bình xăng rồi đi tiếp tới Tucson để hé lộ những khám phá mới mẻ này của tôi cho Người truy tìm chăng?
Ý nghĩ ấy kinh tởm đến độ quai hàm tôi nghiến chặt để chống lại một cơn buồn nôn đột ngột dâng lên từ dạ dày trống rỗng của tôi. Tôi đạp mạnh vào cần thắng, dừng phắt giữa đường. Tôi đã may mắn; không có cái xe nào đâm vào tôi từ phía sau. Cũng không có người lái xe nào dừng lại và đề nghị giúp đỡ và lo lắng cho tôi. Trong lúc này, con đường xa lộ vắng tanh. Mặt trời chiếu rọi vỉa hè, khiến nó chói lóa, biến mất ở chỗ này chỗ kia.
Chuyện này đáng lẽ không giống một sự phản bội, cái ý tưởng tiếp tục con đường đúng đắn và hợp lẽ của tôi. Ngôn ngữ đầu tiên của tôi, ngôn ngữ thực sự của linh thể vốn chỉ được nói trên hành tinh quê nhà của chúng tôi, không có từ sự phản bội hay kẻ phản bội. Hay thậm chí là sự trung thành – bởi vì nếu không có sự tồn tại của một từ trái nghĩa, một khái niệm sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết.
Vậy mà tôi vẫn cảm thấy một mặc cảm tội lỗi đè nặng trước cái ý tưởng về Người truy tìm. Nói cho cô ta biết điều tôi đã biết là sai. Sai ư, làm sao lại thế? Tôi hỏi ngược lại ý nghĩ của mình một cách hung dữ. Nếu tôi dừng ở đây và lắng nghe những lời gợi ý đầy mê hoặc của vật chủ của tôi, tôi sẽ thực sự là một kẻ bội phản. Điều đó là không thể. Tôi là một linh thể cơ mà.
Vậy mà tôi vẫn biết điều tôi muốn, mạnh mẽ hơn và cuồng nhiệt hơn bất kì điều gì tôi đã từng mong muốn trong tất cả tám kiếp sống tôi đã trải qua. Hình ảnh khuôn mặt của Jared nhảy múa trong mắt tôi khi tôi nheo lại trước ánh mặt trời – lần này không còn là kí ức của Melanie nữa, mà là kí ức của tôi về những kí ức của cô ấy. Bây giờ cô ấy không hề ép buộc gì tôi cả. Tôi gần như không cảm nhận được cô ấy trong đầu tôi khi cô ấy chờ đợi – tôi tưởng tượng cô ấy đang nín thở, cứ như là cô ấy làm được như thế - để chờ tôi ra quyết định của mình.
Tôi đã không thể tách biệt chính mình ra khỏi những mong muốn của cơ thể này. Đó là tôi, nhiều hơn ý định của tôi rất nhiều. Đó là tôi muốn hay nó muốn? Liệu sự khác biệt đó giờ có còn ý nghĩa gì hay không?
Trong gương chiếu hậu của tôi, ánh mặt trời phản chiếu trên một cái xe ô tô xa xa đập vào mắt tôi.
Tôi dịch chân vào bàn đạp ga, chầm chậm tiến về phía trước tới cửa hàng nhỏ trong bóng râm của ngọn núi. Thực sự chỉ còn một điều cần phải làm mà thôi.
[3] Annelies Marie "Anne" (12/06/1929 – 03/1945) là một cô gái người Đức gốc Do Thái nổi tiếng nhờ cuốn hồi kí kể về những tháng ngày trốn tránh của cô trong suốt cuộc Đại chiến thế giới lần hai.
[4] Split-rail: hàng rào làm bằng gỗ có hình dạng như đường ray dựng nghiêng.