Giờ thứ 12 của 45
Sachs!”, Rhyme lại gào lên.
Mẹ kiếp, cô ấy nghĩ gì mà lại làm thế chứ? Tại sao cô ấy có thể liều lĩnh như vậy được?
“Chuyện gì xảy ra thế?”, Sellitto lại gặng hỏi. “Chuyện gì vậy?”
Chuyện gì đã xảy với cô ấy?
“Một quả bom trong căn hộ của Horowitz”, Rhyme tuyệt vọng nói. “Sachs vẫn ở bên trong khi quả bom phát nổ. Gọi cho họ ngay. Tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Bật loa ngoài lên.”
Bao nhiêu là máu…
Một khoảng ba phút dài tưởng như bất tận trôi đi và Sellitto được nối máy với Dellray.
“Fred”, Rhyme hét lên, “cô ấy sao rồi?”.
Một khoảng im lặng nặng nề trước khi người đặc vụ trả lời.
“Không tốt lắm, Lincoln. Chúng tôi vẫn đang cố dập tắt đám cháy. Một loại bom sát thương nào đó. Chết tiệt. Lẽ ra chúng tôi phải kiểm tra trước. Chó chết!”
Những chiếc bẫy bằng bom sát thương thường sử dụng thuốc nổ dẻo hoặc thuốc nổ TNT, trộn lẫn với những mảnh sắt hoặc bi nhỏ – để gây sát thương tối đa cho nạn nhân.
Dellray nói tiếp. “Mấy mảng tường đều bay sạch và toàn bộ căn hộ bị thiêu rụi. Một thoáng ngập ngừng. “Tôi phải nói với anh điều này, Lincoln. Chúng tôi… tìm thấy…” giọng của Dellray – bình thường vẫn rõ ràng và dứt khoát – lúc này đã lạc đi rất khó nghe.
“Cái gì?” Rhyme gặng hỏi.
“Một số bộ phận cơ thể người… Một bàn tay. Một phần cánh tay.”
Rhyme nhắm nghiền mắt lại và cảm nhận nỗi kinh hoàng mà anh chưa hề phải chịu đựng suốt bao năm qua. Một cái đâm buốt nhói chạy xuyên vào phần cơ thể tưởng chừng như vô tri vô giác của anh. Hơi thở của anh bật ra thành một tiếng phì phì rất khẽ.
“Lincoln…” Sellitto bắt đầu.
“Chúng tôi vẫn đang kiểm tra”, Dellray nói tiếp. “Có thể cô ấy không chết đâu. Chúng tôi sẽ tìm cô ấy. Đưa cô ấy vào bệnh viện. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Anh biết là chúng tôi sẽ cố gắng mà.”
Sachs, thế quái nào mà cô lại làm như vậy chứ? Mà tại sao mình lại để cô ấy làm?
Lẽ ra mình không bao giờ được…
Rồi một tiếng lạo xạo vang lên trong tai nghe của anh. Một tiếng lốp bốp nổ to không khác gì pháo nổ. “Có ai…Ý tôi là, Chúa ơi, có ai gỡ cái này ra khỏi người tôi được không?”
“Sachs?”, Rhyme hét lên vào chiếc mic. Anh dám chắc rằng đó chính là giọng nói của cô. Và rồi nghe như thể cô đang sặc và nôn khan.
“Ặc”, cô thốt lên. “Ôi, trời… Cái mớ kinh tởm này.”
“Cô có sao không?” Anh quay sang chiếc điện thoại đang bật loa ngoài. “Fred, cô ấy đang ở đâu vậy?”
“Phải anh đấy không, Rhyme?”, cô hỏi. “Tôi không nghe thấy gì cả. Ai đó làm ơn nói cho tôi nghe đi.”
“Lincoln”, Dellray gọi to. “Chúng tôi tìm được cô ấy rồi! Cô ấy vẫn ổn. Cô ấy không sao cả.”
“Amelia?”
Anh nghe thấy tiếng Dellray quát gọi nhân viên cứu thương. Cơ thể Rhyme đã không hề biết run rẩy đã nhiều năm nay, vậy mà ngay lúc này anh chợt nhận thấy ngón tay đeo nhẫn bên tay trái của mình đang run bắn.
Giọng Dellray lại vang lên. “Cô ấy vẫn chưa nghe rõ lắm, Lincoln. Những gì vừa xảy ra là… có vẻ như những gì vừa xảy ra mà chúng tôi nhìn thấy… là thi thể của người phụ nữ kia. Horowitz. Sachs lôi cái xác ra khỏi chiếc tủ lạnh ngay trước khi quả bom phát nổ. Cái xác đã che hứng hầu hết sức công phá.”
Sellitto nói, “Tôi biết anh định nói gì rồi Lincoln. Để cô ấy bình tĩnh lại đã”.
Nhưng không đời nào Rhyme làm thế.
Bằng một giọng gầm gừ dữ tợn anh rít lên, “Cô đang nghĩ cái chết tiệt gì thế, Sachs? Tôi đã bảo cô là có một quả bom. Lẽ ra cô phải biết đó là một quả bom và chạy ra ngoài cho nhanh chứ?”.
“Rhyme, phải anh đấy không?”
Cô đang giả vờ. Anh biết chắc là cô đang giả vờ.
“Sachs…”
“Tôi lấy được đoạn băng dính rồi, Rhyme. Anh còn ở đó không? Tôi không nghe thấy anh nói gì cả. Đó là một đoạn băng dính gói đồ trong suốt. Chúng ta phải lấy bằng được một dấu tay của hắn. Chính anh đã nói thế còn gì.”
“Nói thật nhé, cô đúng là hết thuốc chữa rồi”, anh lầm bầm.
“A lô? A lô? Chẳng nghe thấy anh nói cái quái gì cả.”
“Sachs, đường có giở trò với tôi.”
Đáp lới anh là một sự im lặng kéo dài.
“Sachs?... Sachs, cô còn ở đó không? Chuyện quái quỷ gì…?”
“Rhyme, nghe này – tôi vừa mới chiếu đèn PoliLight lên đoạn băng dính. Anh có đoán được không? Trên đó có một dấu vân tay đứt đoạn! Tôi đã có một dấu vân tay của tên Vũ công rồi!”
Điều đó dừng được anh nói trong giây lát, nhưng rồi anh vẫn nhanh chóng quay lại với bài chửi rủa cay nghiệt của mình. Thao thao bất tuyệt rao giảng một lúc lâu anh mới chợt nhận ra mình đang trút cơn giận dữ vào một đường dây trống trơn.
Người Sachs dính đầy muội than đen sì nhưng từ người cô toát lên một vẻ vô cùng phấn khích.
“Đừng có lèm bèm nữa, Rhyme. Đúng là ngu ngốc nhưng tôi không kịp suy nghĩ gì cả. Tôi cứ hành động thế thôi.”
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”, anh hỏi. Chiếc mặt nạ nghiêm nghị của anh đã tạm thời rơi xuống trong chốc lát, anh quá hạnh phúc khi thấy cô vẫn còn sống.
“Tôi đã vào đến giữa căn hộ. Tôi nhìn thấy quả bom sát thương gắn sau cánh cửa và không nghĩ là tôi sẽ còn đủ thời gian chạy thoát ra ngoài. Tôi chộp lấy cái xác người phụ nữ trong tủ lạnh. Tôi định kéo cô ấy ra cửa sổ phòng bếp. Mới được nửa đường thì quả bom phát nổ.”
Mel Cooper kiểm tra qua một lượt những túi bằng chứng Sachs vừa đưa cho anh. Anh kiểm tra chỗ muội than và những mảnh vụn của quả bom. “Loại bom M45. Dùng thuốc TNT, với công tắc chuyển mạch và ngòi nổ kéo dài bốn mươi lăm giây. Đội đột kích lối vào đã chạm vào nó khi họ phá cửa; ngòi nổ được kích hoạt. Đó là graphite, một loại TNT công thức mới. Rất mạnh, sức công phá rất khủng khiếp.”
“Đồ chó chết”, Sellitto lầm bầm rủa. “Ngòi nổ chậm… Hắn muốn bảo đảm cho càng nhiều người vào trong phòng càng tốt, trước khi quả bom phát nổ.”
Ryyme hỏi, “Có thứ gì có thể lần ra nguồn gốc không?”
“Toàn đồ quân dụng rất phổ biến. Chẳng dẫn chúng ta đến đâu trừ…”
“Trừ tên khốn kiếp đã cung cấp những thứ này cho hắn”, Sellitto thốt lên. “Phillip Hansen.” Điện thoại của viên thám tử chợt đổ chuông và anh nghe máy, đầu anh cúi thấp xuống khi chăm chú lắng nghe và khẽ gật.
“Cám ơn”, cuối cùng anh cũng nói và tắt điện thoại.
“Chuyện gì thế?”, Sachs hỏi.
Mắt của viên thám tử vẫn nhắm nghiền.
Rhyme biết đó là chuyện liên quan đến Jerry Banks.
“Lon?”
“Đó là tin về Jerry.” Viên thám tử ngẩng đầu lên. Thở dài. “Cậu ấy sẽ qua khỏi. Nhưng cậu ấy mất một cánh tay. Họ không thể cứu được nó. Bị tổn thương quá nặng.”
“Ôi, không”, Rhyme thì thầm. “Tôi có thể nói chuyện với cậu ta được không?”
“Không”, viên thám tử nói. “Cậu ấy vẫn đang mê man.”
Rhyme nghĩ về chàng thanh niên, hình dung ra cảnh anh ta lúc nào cũng lắp bắp lỡ lời nói linh tinh, hết vuốt chòm tóc bò liếm trên đầu mình lại xoa xoa vết xước do dao cạo để lại trên chiếc cằm hồng hào. “Tôi rất tiếc, Lon.”
Viên thám tử lắc đầu, giống hệt cách Rhyme vẫn xua đi những biểu hiện thương hại mọi khi. “Chúng ta còn nhiều chuyện khác để lo lắng.”
Đúng, quả là thế thật.
Rhyme chăm chú nhìn đoạn băng dính gói đồ trong suốt – mà tên Vũ công đã dùng để bịt miệng nạn nhân. Cũng giống như Sachs, anh nhìn thấy ngay một dấu son môi rất mờ in trên mặt dính của đoạn băng.
Sachs đang chăm chú nhìn mẩu bằng chứng, nhưng đó không phải là một cái nhìn chuyên môn. Không phải sự đăm chiêu của một nhà khoa học. Cô đang bị sốc nặng.
“Sachs?”, anh hỏi.
“Tại sao hắn lại làm thế?”
“Quả bom ư?”
Cô lắc đầu. “Tại sao hắn lại nhét cô ấy vào trong tủ lạnh?” Cô đưa một ngón tay lên miệng và bắt đầu cắn móng tay. Trong mười đầu ngón tay của cô, chỉ có duy nhất một ngón – ngón út bên bàn tay trái – là còn móng dài và nguyên vẹn. Tất cả những móng còn lại đều bị gặm nham nhở. Mấy móng tay thậm chí còn bầm nguyên vết máu.
Nhà hình sự học trả lời, “Tôi cho nguyên nhân là vì hắn muốn đánh lạc hướng chúng ta, để chúng ta không để ý đến quả bom. Một cái xác trong tủ lạnh – điều đó chắc chắn sẽ khiến chúng ta chú ý”.
“Ý tôi không phải thế”, cô trả lời. “Nguyên nhân tử vong là do ngạt thở. Hắn nhét cô ấy vào trong đó khi cô ấycòn sống. Tại sao? Có lẽ nào hắn là một kẻ bạo dâm không?”
Rhyme trả lời, “Không, tên Vũ công không phải là kẻ bạo dâm. Hắn không hơi đâu mà làm thế. Động cơ duy nhất của hắn là hoàn thành công việc, và hắn có thừa ý chí để kiểm soát những dục vọng khác của mình. Tại sao hắn lại để cô ta chết ngạt trong tủ lạnh trong khi hắn hoàn toàn có thể dùng một con dao hoặc một sợi dây?... Tôi cũng không biết chính xác tại sao, nhưng điều đó có thể lại tốt cho chúng ta”.
“Làm sao lại thế được?”
“Có thể có điều gì đó ở cô ta khiến hắn căm ghét và hắn muốn giết cô ta bằng cách dã man nhất hắn có thể nhgĩ ra.”
“Vâng, nhưng tại sao như vậy lại tốt cho chúng ta?” Sellitto hỏi.
“Bởi vì” – chính Sachs là người lên tiếng trả lời thay – “điều đó có nghĩa là có thể hắn đang mất đi sự lạnh lùng. Hắn đã bắt đầu hành động cẩu thả.”
“Chính xác”, Rhyme thốt lên, không giấu nổi vẻ tự hào vì Sachs đã tìm ra mối liên hệ. Nhưng cô không nhìn thấy được nụ cười khích lệ của anh. Mắt cô nhắm nghiền lại trong giây lát và cô lắc mạnh đầu, có lẽ lúc này cô đang hình dung lại đôi mắt kinh hoàng của người phụ nữ xấu số. Người ta thường nghĩ rằng các nhà hình sự học đều là những kẻ máu lạnh (đã không biết bao nhiêu lần vợ cũ của Rhyme trút lên đầu anh lới buộc tội đó?), nhưng trên thực tế những người giỏi nhất phải là những người có được sự đồng cảm đến nát lòng với nạn nhân tại các hiện trường vụ án mà họ khám nghiệm. Sachs là một trong những người như vậy.
“Sachs”, Rhyme dịu dàng thì thầm, “dấu vân tay?”.
Cô trân trân nhìn anh.
“Cô nói là cô tìm được một dấu vân tay. Chúng ta phải hành động thật khẩn trương.”
Sachs gật đầu. “Đây là một dấu vân ngón tay”. Cô giơ chiếc túi nhựa lên.
“Liệu có thể là dấu vân tay của cô ta không?”
“Không. Tôi lấy dấu vân tay của cô ấy rồi. Phải mất khá lâu mới tìm được bàn tay. Nhưng chắc chắn đây không phải dấu vân tay của cô ấy.”
“Mel”, Rhyme nói.
Người kỹ thuật viên ẩu băng dính vào khung SuperGlue và đun nóng một chút keo. Gần như ngay lập tức một phần nhỏ xíu của dấu vân tay hiện lên rất rõ.
Cooper lắc đầu. “Thật không thể nào tin được”, anh lẩm bẩm.
“Sao vậy?”
“Tên Vũ công, hắn đã lau đoạn băng dính. Chắc chắn hắn biết mình đã chạm vào nó khi không mang găng tay. Chỉ còn lại một phần nhỏ của dấu vân tay.”
Cũng như Rhyme, Cooper là thành viên của Hiệp hội Nhận dạng Quốc tế. Họ là chuyên gia trong việc xác định danh tính con người từ những dấu vân tay. ADN và đặc điểm cấu trúc răng. Nhưng dấu vân tay trong trường hợp này – cũng giống như dấu vân tay trên mặt kim loại của quả bom – nằm ngoài khả năng của họ. Nếu như có chuyên gia nào có thể tìm ra và phân loại được một dấu vân tay, đó phải là hai người, Rhyme và Cooper. Nhưng không phải là dấu vân tay này.
“Cho in ra và dán nó lên”, Rhyme càu nhàu. “Dán nó lên bảng kia.” Bao giờ họ cũng làm đủ các thao tác bài bản vì đó là yêu cầu bắt buộc trong cái nghề này. Nhưng anh thấy chán chường khủng khiếp. Suýt nữa Sachs đã chết một cách vô ích.
Edmond Locard, nhà hình sự học lừng danh người Pháp, đã tìm ra một nguyên tắc mang tên ông. Ông khẳng định rằng trong mỗi cuộc đụng độ giữa hung thủ và nạn nhân luôn có một sự trao đổi bằng chứng. Dù có thể chỉ ở mức độ nhỏ li ti, nhưng vẫn có sự luân chuyển qua lại. Tuy vậy Rhyme có cảm giác rằng nếu như có ai đó đủ khả năng phủ nhận Nguyên tắc Locard, thì đó hẳn phải là bóng ma vẫn được họ gọi bằng cái tên Vũ công Quan tài.
Nhận thấy sự chán nản hiện lên trên mặt Rhyme, Sellitto nói, “Chúng ta vẫn còn chiếc bẫy ở đồn cảnh sát. Nếu gặp may, biết đâu chúng ta sẽ tóm được hắn.”
“Đành phải hy vọng thôi. Chúng ta cũng chỉ còn biết trông cậy vào vận may chết tiệt.”
Anh nhắm mắt lại, ngả đầu lên gối nằm thả lỏng. Một lát sau anh nghe thấy tiếng Thom đang nói, “Gần mười một giờ rồi. Đến giờ đi ngủ”.
Có nhiều lúc thật dễ dàng lãng quên cơ thể mình, quên đi thực tế rằng chúng tacómột cơ thể – đó là những khi cuộc sống đang bị đe dọa và con người ta phải bước ra khỏi cái thân xác vật chất để tập trung suy nghĩ, làm việc, làm việc không ngừng. Con người ta phải vượt ra khỏi những giới hạn thông thường của mình. Nhưng Lincoln Rhyme có một cơ thể nhất định không chịu để cho chủ nó lãng quên mình. Chứng thối loét vì nằm liệt giường có thể dẫn đến tình trạng nhiễm trùng và nhiễm độc máu. Rồi lại còn tràn dịch màng phổi, viêm phổi. Quên không thông bàng quang ư? Quên không xoa bóp ổ bụng để giúp nhuận tràng ư? Đôi giầy Spenco[65]buộc hơi quá chặt? Hậu quả sẽ là chứng rối loạn huyết áp do mất phản xạ và điều đó có thể dẫn tới một cơn đột quỵ. Trong khi chỉ riêng tình trạng kiệt sức cũng có thể gây ra một cơn nhồi máu cơ tim.
Quá nhiều cách chết…
“Anh chuẩn bị đi ngủ nào”, Thom nói.
“Tôi còn phải..”
“Đi ngủ, anh phải đi ngủ.”
Rhyme đành chịu thua; anh thấy mệt mỏi, rất mệt mỏi.
“Đượv rồi, Thom, được rồi.” Anh đẩy xe về phía cầu thang máy. “Có điều này”,. Anh ngoái lại. “Vài phút nữa cô có thể lên trên này được không, Sachs?”
Cô gật đầu, nhìn cửa chiếc cầu thang bé tí đóng sập lại.
Cô tìm thấy anh trên chiếc giường Clinitron.
Sachs đã chờ hẳn mười phút để anh có đủ thời gian làm cho xong những công đoạn trước khi đi ngủ – Thom đã đặt ống thông tiểu và đánh răng cho ông chủ của mình. Cô biết Rhyme vẫn nói năng bạt mạng – anh có cái khinh bạc bất cần đời của một người tàn phế trước mọi sự thương hại. Nhưng cô cũng biết rằng có những thủ tục cá nhân mà anh không muốn cô nhìn thấy.
Cô sử dụng khoảng thời gian đó để tranh thủ tắm qua trong phòng tắm dưới tầng, thay quần áo sạch – của cô – mà Thom vẫn giữ trong phòng giặt là ở dưới tầng hầm.
Ánh điện mờ mờ. Rhyme đang cọ cọ đầu trên gối như một con gấu gãi lưng vào một thân cây. Clinitron là chiếc giường tiện nghi nhất thế giới. Với trọng lượng lên đến cả nửa tấn, trông nó giống như một tấm phản khổng lồ với những đường ống thủy tinh bên trong để lưu thông luồng không khí đã được đun nóng.
“À, Sachs, hôm nay cô giỏi lắm. Cô đã thắng trí hắn rồi đấy.”
Sao không cảm ơn mình đã khiến Jerry Banks mất một cánh tay?
Và mình đã để tên Vũ công trốn thoát.
Cô bước lại gần tủ rượu của anh và rót ình một cốc Macallan, rồi nhướng mày về phía anh.
“Ồ, tất nhiên”, anh nói. “Nguồn sữa mẹ, chất sương mai tiêu sầu…”
Cô đá mạnh cho đôi giày tuột khỏi chân, rồi vén vạt áo lên chăm chú nhìn vết bầm tím.
“Ối chà”, Rhyme thốt lên.
Vết bầm có hình dạng như bang Missouri và tím đen như một quả cà dái dê.
“Tôi không thích bom”, cô nói. “Chưa bao giờ ở gần như quả này. Và tôi không thích chúng.”
Sachs mở túi xách của mình, lục lọi và lấy ra rồi nuốt chửng ba viên aspirin không cần nước (một trò mà hầu như những người bị viêm khớp đều biết). Cô bước lại bên cửa sổ. Phía ngoài kia là những con chim ưng. Những con chim tuyệt đẹp. Chúng cũng không to lắm. 14 đến 16 inch là cùng. Quá nhỏ nếu là một con chó. Nhưng với một con chim thì… quả là đáng sợ. Mỏ của chúng chẳng khác gì móng vuốt của một sinh vật thường thấy trong loạt phimAlienđang được ưa thích.
“Cô không sao chứ, Sachs? Hãy nói thật xem nào?”
“Tôi không sao.”
Cô quay lại ghế ngồi, nhấm nháp thêm thứ chất lỏng cay xè.
“”Đêm nay cô muốn ngủ lại đây không?”, anh hỏi.
Thỉnh thoảng cô vẫn ngủ lại đây. Khi thì nằm trên sofa, khi thì nằm ngay trên giường, bên cạnh anh. Có thể là do cảm giác êm ái mà chiếc giường Clinitron mang lại, hoặc cũng có thể đơn giản chỉ là cảm giác được nằm bên cạnh một người khác – cô cũng không biết lý do tại sao – nhưng khi ngủ lại đây cô ngủ ngon hơn. Cô không hề biết tận hưởng cảm giác nằm bên người đàn ông khác kể từ sau người bạn trai gần đây nhất của cô, Nick. Cô và Rhyme thường nằm cạnh nhau và nói chuyện. Cô sẽ nói cho anh nghe về ô tô, về những cuộc thi bắn súng ngắn của cô, về mẹ cô và đứa con gái mà cô nhận đỡ đầu. Về cuộc đời và cái chết khổ sở, kéo dài của cha cô. Bao giờ cô cũng đưa ra nhiều thông tin cá nhân hơn anh. Nhưng như vậy cũng không sao. Cô thích được nghe anh nói bất kỳ điều gì anh muốn. Trí tuệ của anh thật đáng kinh ngạc. Anh thường kể cho cô nghe về New York cổ xưa, về những đợt truy quét mafia mà cả thế giới chưa bao giờ nghe nói đến, về những hiện trường vụ án sạch sẽ đến nỗi tưởng chừng như vô vọng cho tới khi những người khám nghiệm phát hiện ra một hạt bụi nào đó, một mẩu móng tay, một giọt máu li ti, tóc hoặc sợi vải có thể tiết lộ hung thủ là ai hoặc ít nhất cũng là nơi hắn sống – vâng, tất nhiên là tiết lộ choRhymebiết, chứ không hẳn là với tất cả mọi người. Không, bộ óc của anh dường như không bao giờ ngừng nghỉ. Cô được biết rằng trước khi bị thương anh thường lang thang khắp các con phố của New York tìm kiếm những mẫu đất hoặc cỏ, cây hay đá – bất kỳ thứ gì có thể giúp anh phá án. Dường như thể sự hiếu động đã chuyển hết từ đôi chân vô dụng vào bộ óc của anh, tiếp tục lùng sục khắp thành phố – trong trí tưởng tượng của anh – từng đêm.
Nhưng đêm nay thì khác. Tâm trí Rhyme như đang ở tận đâu. Cô không bao giờ phật lòng vì sự bẳn gắt của anh – thậm chí chính việc anh cáu kỉnh như vậy lại là điều tốt. Nhưng cô không thích anh lơ đãng như thế này. Cô ngồi xuống mép giường.
Anh bắt đầu nói điều mà dường như vì nó anh đã yêu cầu cô lên đây. “Sachs này… Lon đã kể cho tôi nghe. Về những gì xảy ra ở sân bay.”
Cô nhún vai.
“Cô cũng chẳng thể làm được gì hơn ngoài việc tự khiến mình mất mạng cả. Cô đã làm đúng những gì phải làm khi nằm xuống tránh đạn. Hắn bắn phát đầu tiên chỉ là hú họa để đo khoảng cách và chắc chắn với phát thứ hai hắn sẽ hạ được cô.”
“Tôi vẫn còn hai, ba giây. Tôi đã có thể hạ hắn. Tôi biết là lẽ ra tôi đã có thể.”
“Đừng có khinh suất thế, Sachs. Quả bom đó…”
Vẻ dữ dội trong mắt cô lúc này khiến anh im bặt. “Tôi muốn tóm được hắn, bằng mọi giá. Và tôi có cảm giác là anh cũng muốn tóm được hắn không kém gì tôi. Tôi nghĩ nếu là anh chắc anh cũng đánh liều thôi.” Cô nói thêm với một vẻ ý nhị đầy bí ẩn, “Mà có thể anh đang liều cũng nên”.
Nhận xét này gây ra một phản ứng mạnh mẽ hơn cả những gì cô đã dự tính. Anh hấp háy mắt, rồi nhìn lãng ra chỗ khác. Nhưng anh vẫn không nói gì, chỉ lặng lẽ nhấm nháp chỗ whiskey của mình.
Đột nhiên cô lên tiếng, “Tôi hỏi điều này được không? Nếu anh không muốn tôi hỏi, anh có thể bảo tôi ngậm miệng lại”.
“Cứ hỏi đi, Sachs. Chẳng lẽ giữa tôi và cô vẫn còn những bí mật hay sao? Tôi không nghĩ vậy.”
Mắt dán chặt xuống sàn nhà, cô nói, “Tôi nhớ có lần tôi đã kể cho anh nghe về Nick. Về những tình cảm tôi dành cho anh ấy, đại loại thế. Về chuyện xảy ra giữa hai chúng tôi đã khó khăn đến nhường nào”.
Anh gật đầu.
“Và tôi hỏi anh liệu anh có những tình cảm như vậy với bất kỳ ai chưa, có thể là với vợ anh. Và anh trả lời là có, nhưng không phải với Blaine.” Cô ngước lên nhìn anh.
Anh trấn tĩnh rất nhanh, nhưng vẫn không đủ nhanh. Và cô chợt nhận ra cô vừa thổi không khí lạnh buốt lên một tế bào thần kinh trần trụi.
“Tôi nhớ”, anh trả lời.
“Chị ấy là ai? Nghe này, nếu như anh không muốn nói đến chuyện đó…”
“Tôi không ngại đâu. Tên cô ấy là Claire. Claire Trilling. Cô thấy cái họ đó lạ tai không[66]?”
“Có lẽ hồi ở trường chị ấy cũng phải chịu đựng những trò trêu chọc chẳng kém gì tôi. Amelia Sex, Amelia Sucks[67]… Anh đã gặp chị ấy như thế nào?”
“À thì…”, anh bật cười vì chính sự lúng túng của mình rồi tiếp tục. “Ngay trong sở.”
“Chị ấy cũng là cảnh sát?”, Sachs không giấu được sự ngạc nhiên.
“Đúng.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Đó là một… mối quan hệ khó khăn.” Rhyme buồn bã lắc đầu. “Tôi đã có vợ, cô ấy đã có chồng. Chỉ có điều không phải là vợ chồng của nhau.”
“Con cái?”
“Cô ấy có một đứa con gái.”
“Vậy là hai người chia tay?”
“Chuyện đó chẳng đi đến đâu, Sachs. Ôi trời, Blaine và tôi sớm muộn gì cũng ly hôn – nếu không thì cũng giết lẫn nhau. Đó chỉ còn là vấn đề thời gian. Nhưng Claire… cô ấy lo cho con gái của mình – sợ chồng cô ấy sẽ giành được quyền nuôi con bé nếu cô ấy ly hôn. Cô ấy không yêu anh ta, nhưng anh ta là người tốt. Rất yêu con.”
“Anh đã gặp con bé chưa?”
“Đứa con gái ư? Rồi.”
“Bây giờ anh còn gặp chị ấy không? Claire ấy?”
“Không. Đó là chuyện quá khứ rồi. Cô ấy không còn làm trong lực lượng cảnh sát nữa.”
“Hai người chia tay sau tai nạn của anh?”
“Không, không, từ trước cơ.”
“Nhưng dù sao chị ấy cũng phải biết là anh bị thương chứ, đúng không?”
“Không”, Rhyme nói sau một thoáng lưỡng lự kéo dài.
“Tại sao anh không nói cho chị ấy biết?”