Họ bắt tay vào làm việc, Sachs và người kỹ thuật viên. Cooper chụp lại những tấm ảnh, giảm bớt kích cỡ của chúng xuống cho thống nhất với nhau. Sau đó anh và Sachs bắt đầu ghép chúng lại như người đang chơi trò ghép hình. Họ chẳng khác gì những đứa trẻ đang phấn khích thử nghiệm các phương án khác nhau, sắp xếp, thử đi thử lại và say sưa cãi vã. Sachs còn hăng hái đến nỗi lấy ra một cây bút và vẽ thêm vài đường nối liền khoảng trống trên tấm ảnh.
“Ăn gian nhé”, Cooper đùa.
“Nhưng cứ khớp là được còn gì”, cô thốt lên với vẻ đắc thắng.
Cuối cùng họ cũng cắt và dán xong một bức ảnh trọn vẹn. Thực ra nó cũng chỉ bằng 3/4 kích thước của một dấu vân tay bình thường, có lẽ là ngón trỏ bên tay phải.
Cooper giơ tấm ảnh lên. “Tôi không dám tin vào vụ này cho lắm,Lincolnạ.”
Nhưng Rhyme nói, “Đó là nghệ thuật mà, Mel. Đẹp thật đấy!”.
“Cho kiểm tra qua AFIS đi. Đặt lệnh kiểm tra với mức ưu tiên cao nhất. Tất cả các bang,”
“Ôi trời”, Cooper thốt lên. “Thế thì coi như đi tong khoản lương cả năm của tôi rồi.”
Anh quét tấm ảnh vào máy tính.
“Có lẽ sẽ phải mất đến nửa tiếng đồng hồ”, Cooper nói, hoàn toàn thực tế chứ không phải bi quan.
Nhưng hóa ra cũng không lâu đến mức đó. Đúng năm phút sau – chỉ vừa đủ thời gian để Rhyme bắt đầu tự hỏi ai sẽ là người có thiện chí rót cho anh chút rượu, Sachs hay Cooper – màn hình máy tính đã nhấp nháy và một hình ảnh mới vụt hiện lên.
Yêu cầu của bạn đã nhận được… một kết quả khớp. Tỷ lệ đối chiếu là 14%. Xác suất nhận diện thống kê: 97%.
“Ôi lạy Chúa”, Sachs thốt lên. “Chúng ta tóm được hắn rồi.”
“Hắn là ai, Mel?” Rhyme khẽ khàng hỏi, như thể anh sợ là nếu nói to những từ đó có thể thổi bay các electron mong manh trên màn hình máy tính.
“Hắn không còn là tên Vũ công nữa”, Cooper nói. “Hắn là Stephen Robert Kall. Ba mươi sáu tuổi. Chỗ ở hiện tại: Không xác định. Lần cuối cùng được trông thấy, cách đây đã mười lăm năm, một số hiệu trong giấy gọi nhập ngũ tạiCumberland,West Virginia.”
Một cái tên quá phổ biến. Rhyme chợt nhận ra một cảm giác thất vọng rất vô lý đang len lỏi trong lòng mình. Kall.
“Tại sao hắn lại có trong hồ sơ?”
Cooper đọc to. “Câu chuyện mà hắn đã kể cho gã Jodie… Hắn phải vào trại cải tạo hai mươi tháng vì tội ngộ sát khi mới mười lăm tuổi.” Một tiếng cười khẩy. “Hình như tên Vũ công không phí công kể cho gã kia rằng nạn nhân trong câu chuyện chính là người bố dượng của hắn.”
“Bố dượng à, hừm.”
“Chỗ này khó đọc quá”, Cooper phàn nàn, mắt gí sát vào màn hình. “Trời ơi.”
“Sao vậy?”, Sachs sốt ruột hỏi.
“Những dòng ghi chú trong báo cáo của cảnh sát. Chuyện xảy ra như thế này. Có vẻ như đã từng có tiền sử xung đột gia đình. Mẹ của hắn đang chết dần vì bệnh ung thư và chồng bà ta – tức là bố dượng của Kall – đã đánh bà ta vì lỗi vớ vẩn nào đó. Bà ta ngã và bị gãy một cánh tay. Vài tháng sau bà ta qua đời và Kall nung nấu trong đầu cái suy nghĩ rằng cái chết của mẹ hắn là lỗi của Lou.”
Cooper tiếp tục đọc và người anh thực sự bắt đầu run bắn lên. “Có muốn nghe chuyện gì đã xảy ra không?”
“Cứ đọc đi.”
“Một vài tháng sau khi bà mẹ qua đời Stephen và bố dượng hắn cùng vào rừng đi săn. Thằng nhóc đã bất ngờ đánh ngất ông bố dượng, lột trần truồng ông ta ra, rồi trói vào một gốc cây trong rừng. Hắn đã để mặc ông ta như vậy nhiều ngày liền. Theo lời luật sư bào chữa thì hắn làm vậy chỉ để dọa ông bố dượng. Nhưng lúc cảnh sát đến nơi, hừm, các vị cứ hình dung là vết thương đã bị nhiễm trùng khủng khiếp. Giòi, chủ yếu là giòi. Nạn nhân chết sau đó hai ngày. Thật dã man.”
“Chúa ơi”, Sachs thì thầm.
“Khi họ tìm thấy ông ta, thằng bé cũng ở đó, hắn ngồi ngay cạnh bố dượng mình, trơ mắt nhìn.” Cooper đọc tiếp,“Kẻ tình nghi đầu hàng ngay lập tức không hề chống cự. Dường như hắn đang ở trong trạng thái hoàn toàn không bình thường. Cứ lải nhải lặp đi lặp lại, “Cái gì cũng có thể giết, cái gì cũng có thể giết”… Hắn được đưa tới Trung tâm Sức khỏe Tâm thần khu vựcCumberlandđể đánh giá tình trạng bệnh lý.”
Các yếu tố thuộc về tiểu sử tâm lý không khiến Rhyme thấy mặn mà cho lắm. Anh tin tưởng vào những kỹ thuật xây dựng chân dung tội phạm dựa trên bằng chứng khoa học hình sự nhiều hơn vào những chuyên gia nghiên cứu hành vi. Anh biết tên Vũ công là một kẻ biến thái – tất cả những tên giết người chuyên nghiệp đều như thế – nhưng ngay lúc này những mất mát cũng như tổn thương đã biến hắn thành con người như hiện nay cũng không giúp được gì nhiều. Anh hỏi, “Có ảnh không?”
“Không bức ảnh nào trong thời gian ở trại cải tạo vị thành niên.”
“Đúng rồi. Chó chết thật. Thế còn hồi nhập ngũ?”
“Không. Nhưng ở đây còn một tiền sự nữa.”, Cooper nói. “Hắn cố tìm cách đăng ký gia nhập lính thủy đánh bộ nhưng hồ sơ tâm lý không ổn định đã khiến hắn bị từ chối. Hắn đã săn lùng những sĩ quan tuyển quân khu vực Washington D.C. suốt mấy tháng liền và cuối cùng hắn hành hung một trung sĩ. Nhưng được hưởng án treo.”
Sellitto nói, “Chúng ta sẽ cho kiểm tra cái tên này qua chương trình FINEST, danh sách tên lỏng, và của NCIC”.
“Bảo Dellray cử ngay vài người tớiCumberlandvà bắt đầu theo dấu hắn”, Rhyme ra lệnh.
“Sẽ làm ngay đây.”
Stephen Kall…
Sau suốt ngần ấy năm. Cảm giác thật giống như cuối cùng cũng được tới thăm một ngôi đền linh thiêng ta đã đọc đến suốt đời nhưng chưa bao giờ có dịp tận mắt nhìn thấy.
Có tiếng gõ cửa dồn dập trên cửa làm mọi người giật mình. Theo bản năng cả Sachs và Sellitto đều vụt đưa tay xuống nắm lấy báng súng của mình.
Nhưng vị khách hóa ra chỉ là một trong những cảnh sát bảo vệ dưới nhà. Anh ta xách theo một chiếc túi to bự. “Tôi chuyển đồ lên.’
“Cái gì đấy?” Rhyme hỏi.
“Một viên cảnh sát từIllinoisđến. Anh ta nói chiếc túi này được gửi đến từ Phòng Cứu hỏa và Cứu hộ hạt Du Page.”
“Là cái gì?”
Viên cảnh sát nhún vai. “Anh ta bảo là những thứ linh tinh từ lốp ô tô gì đấy. Nhưng lấy những cái đó làm gì chứ. Chắc anh ta nói đùa.”
“Không”, Rhyme nói, “đó chính xác là sự thật 100% đấy.” Anh liếc nhìn Cooper. “Những thứ được cạo ra từ lốp xe có mặt tại hiện trường vụ nổ.”
Viên cảnh sát trợn tròn mắt. “Các ông muốn cái này thật sao? Được mang tận từChicagođến?”
“Chúng tôi đã nín thở chờ nó lâu lắm rồi đấy.”
“Hừm. Đời nhiều lúc cũng buồn cười thật, tôi nói vậy có đúng không?”
Và tất nhiên là Lincoln Rhyme chỉ có thể gật đầu đồng ý.
Bay cũng chỉ là một phần của nghề bay chuyên nghiệp.
Nghề bay chuyên nghiệp cũng còn là công việc giấy tờ.
Nằm lăn lóc ở phía sau chiếc xe thùng đang đưa Percey Clay tới sân bay Mamaroneck là một chồng to đùng những cuốn sách cùng với biểu đồ và tài liệu:Danh bạ cơ sở/ Sân bay, Cẩm nang Thông tin Phi công, những “Thông báo gửi phi công” do FAA phát hành – cùng những thông tư hướng dẫn, vàDanh bạ Thông tin Sân bay Jeppesen. Tất cả phải đến hàng nghìn trang. Hàng núi thông tin. Như hầu hết các phi công khác, Percey thuộc lòng tất cả những thông tin đó. Và cô không bao giờ nghĩ đến việc lái một chiếc máy bay mà không quay lại với những tài liệu gốc để nghiên cứu chúng từ đầu đến cuối, đúng theo nghĩa đen.
Với những thông tin này và chiếc máy tính của mình, cô đang bận bịu điền vào hai tài liệu cơ bản trước khi cất cánh: nhật ký bay và lịch trình bay không lưu. Trong nhật ký bay cô sẽ phải đánh dấu độ cao của họ, tính toán độ sai lệch đường bay do gió cản và biên độ dao động giữa đường bay chuẩn và đường bay từ trường, xác định ETE – tức là tổng thời gian bay dự tính trên không – để từ đó tính toán thông số thần thánh: lượng nhiên liệu họ sẽ cần cho chuyến bay. Sáu thành phố, sáu nhật ký bay khác nhau, hàng chục điểm kiểm tra giữa các chặng bay…
Rồi lại còn lịch trình bay không lưu theo quy định của FAA, đặt cạnh nhật ký bay. Một khi họ đã cất cánh, người phi công phụ sẽ kích hoạt lịch trình này bằng cách gọi cho Đài Kiểm soát Không lưu ở Mamaroneck, sau đó đến lượt này gọi tiếp đến Chicago để thông báo về thời điểm dự tính đến nơi của chiếcFoxtrot Bravo. Nếu chiếc máy bay không đến nơi trong vòng nửa tiếng sau thời điểm dự kiến, nó sẽ được thông báo là đến chậm và các thủ tục tìm kiếm-cứu hộ sẽ bắt đầu được triển khai.
Đây là những tài liệu rất phức tạp và buộc phải được tính toán một cách hoàn hảo. Nếu như máy có nguồn cung cấp nhiên liệu không hạn chế họ hoàn toàn có thể trông cậy vào việc định hướng bay qua radio và có thể dành bao nhiêu thời gian tùy thích cho việc lượn lờ bay từ điểm này tới điểm khác ở bất kỳ độ cao nào họ muốn. Nhưng thực tế thì không chỉ nhiên liệu đã cực đắt tiền (mà tệ nhất là hai động cơ tua bin phản lực Garrett tiêu tốn lượng nhiên liệu thật kinh hoàng); mà nó còn rất nặng và riêng chi phí cho việc mang theo chúng – trong những bình nhiên liệu phụ - cũng đã ngốn mất rất nhiều tiền. Trong những chuyến bay dài, nhất là với việc nhiều lần phải cất cánh tiêu tốn nhiên liệu, việc chở theo quá nhiều xăng có thể làm giảm đáng kể khoản lợi nhuận mà Công ty đang kiếm được từ chuyến bay. Theo quy điịnh của FAA mỗi chuyến bay phải có đủ nhiên liệu để đưa máy bay đến được đích, cộng với một lượng dự trữ, trong trường hợp phải bay đêm, tương đương với bốn mươi lăm phút bay.
Vừa lướt ngón tay nhoay nhoáy trên bàn phím máy tính, Percey Clay vừa cẩn thận điền hết các mục trong hai mẫu tài liệu bằng kiểu chữ viết tay rất rõ ràng của mình. Cẩu thả trong tất cả những thứ khác trong đời mình, nhưng riêng với việc bay thì cô lại cực kỳ tỉ mỉ. Chỉ riêng việc điền thông tin về các tần số của ATIS[98]và biên độ dao động do từ trường cũng làm cô thích thú. Cô không bao giờ quá bủn xỉn, cũng không bao giờ quá phóng tay nếu như công việc yêu cầu sự tính toán chính xác. Tối hôm nay, cô lại càng đắm chìm trong công việc.
Roland Bell ngồi bên cạnh cô. Trông anh thật phờ phạc và ủ rũ. Không còn thấy bóng dáng của người đàn ông vui tính và dí dỏm lúc đầu. Cô thấy buồn cho anh, cũng giống như cô thấy buồn cho bản thân mình; có vẻ như Brit Hale là nhân chứng đầu tiên anh không bảo vệ được. Cô cảm thấy một sự thôi thúc thật khó hiểu muốn được chạm vào cánh tay anh, được an ủi anh, giống như anh đã làm với cô. Nhưng dường như anh thuộc mẫu người muốn thích khép mình lại mỗi khi gặp mất mát; bất kỳ sự cảm thông nào cũng chỉ khiến mọi việc thêm tồi tệ. Anh cũng giống hệt cô, Percey tự nhủ. Bell chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ của chiếc xe thùng, bàn tay chốc chốc lại nắm lấy phần báng nhựa màu đen kẻ chéo của khẩu súng đeo trong bao dưới nách.
Đúng lúc cô vừa điền xong tờ khai lịch trình bay không lưu cuối cùng, chiếc xe thùng rẽ vào góc đường dẫn vào sân bay, dừng lại theo hiệu lệnh của những người bảo vệ có vũ trang, những người này kiểm tra giấy tờ của mọi người trong xe rồi vẫy tay cho họ vào.
Percey chỉ cho xe chạy tới chiếc hangar nhưng cô để ý thấy là đèn trong khu văn phòng vẫn sáng. Cô yêu cầu những chiếc xe dừng lại và cô trèo ra ngoài, trong khi Bell và những cảnh sát bảo vệ khác bước hai bên cô, cảnh giác và căng thẳng, cùng đi vào trong khu chính của văn phòng.
Ron Talbot với bộ dạng thật nhàu nhĩ và kiệt sức, đang ngồi trong văn phòng, tay không ngừng lau vầng trán hói đẫm mồ hôi. Mặt ông ta đỏ bầm trông thật đáng ngại.
“Ron...” Cô hớt hải bước lên phía trước. “Anh không sao đấy chứ?”
Họ ôm chầm lấy nhau
“Brit”, ông ta thốt lên, lắc đầu bàng hoàng, hổn hển. “Hắn đã hại cả Brit nữa. Percey lẽ ra cô không nên tới đây. Hãy tới chỗ nào đó an toàn. Quên chuyện chuyến bay đi. Không đáng để mạo hiểm vậy đâu.”
Cô bước lùi lại. “Có chuyện gì thế? Anh ốm à?”
“Chỉ là mệt mỏi thôi.”
Cô giật điếc thuốc lá ra khỏi tay ông ta và dụi tắt nó đi. “Anh tự mình thực hiện những công việc đó à? Trên chiếcFoxtrot Bravoấy?”
“Tôi…”
“Ron?”
“Cũng chỉ là hầu hết thôi. Nó gần xong xuôi rồi. Thằng cha ở Northeast đã mang đến đây bình cứu hoả thay thế và động cơ vòng xuyến annular cách đây khoảng một giờ. Tôi đã bắt đầu lắp chúng rồi đấy chứ. Chỉ là hơi mệt một chút thôi.”
“Lại những cơn đau ngực à?”
“Không, cũng không hẳn thế.”
“Ron, anh về nhà đi.”
“Tôi có thể…”
“Ron”, cô xẵng giọng. “Tôi vừa mất hai người thân yêu trong vòng có hai ngày qua. Tôi sẽ không chịu mất thêm người thứ ba đâu… Tôi có thể lắp động cơ annular mà. Dễ như ăn bánh thôi, có gì đâu.”
Trông Talbot như thể ông ta thậm chí còn không đủ sức cầm một chiếc cờ lê, chứ đừng nói đến chuyện khiêng một buồng đốt động cơ nặng trịch.
Percey hỏi, “Brad đâu rồi?”. Người phi công phụ cho chuyến bay.
“Đang trên đường tới. Sẽ có mặt ở đây trong vòng một giờ nữa.”
Cô hôn lên vầng trán bết mồ hôi của ông ta. “Anh về nhà đi. Và đừng có đốt thuốc nữa, vì Chúa. Anh có bị điên không?”
Ông ta ôm lấy cô. “Percey, về chuyện của Brit…”
Cô giơ một ngón tay lên môi và suỵt khẽ để ngăn ông ta lại. “Về nhà ngay. Cố chợp mắt lấy một chút. Khi anh tỉnh giấc thì tôi đã ở Erie rồi và chúng ta sẽ giành lại được bản hợp đồng đó. Đã ký, đóng dấu và trao tận tay.”
Ông ta loạng choạng gượng dậy, đứng sững một chút chăm chú nhìn chiếcFoxtrot Bravobên ngoài cửa sổ. Khuôn mặt lộ rõ một vẻ cay đắng và chua chát. Cô còn nhớ cũng chính là vẻ mặt đó khi ông ta cho cô biết việc ông ta không qua được bài kiểm tra thể lực và không bao giờ còn có thể kiếm sống bằng nghề bay được nữa. Talbot đi thẳng ra cửa.
Đã đến lúc bắt tay vào công việc. Cô xắn hai ống tay áo lên, ra hiệu cho Bell bước lại gần mình. Anh cúi thấp đầu xuống phía cô theo cách mà cô thấy thật quyến rũ làm sao. Giống hệt như tư thế của Ed mỗi lần anh cúi xuống nghe cô thì thầm gì đó. Cô nói, “Tôi sẽ cần khoảng vài giờ trong hangar. Anh có thể giữ tên chó đẻ đó tránh xa tôi cho đến lúc đó không?”.
Không còn những câu văn hoa trịnh trọng, không còn kiểu thoả thuận chắc nịch ban đầu. Roland Bell, người đàn ông với hai khẩu súng, gật đầu với vẻ nghiêm túc, ánh mắt tinh nhanh như điện xẹt đảo hết chỗ này sang chỗ khác.
Trong tay họ lúc này là một điều bí hiểm.
Cooper và Sachs đã kiểm tra tất cả những dấu vết tìm được trong lốp của những chiếc xe cứu hoả ở Chicago cùng xe cảnh sát có mặt tại hiện trường vụ nổ đã giết chết Ed Carney. Đó là một mớ hỗn độn toàn đất bẩn vô tích sự, phân chó, cỏ, dầu và rác rưởi linh tinh mà Rhyme biết chắc là kiểu gì cũng có. Nhưng họ đã có một phát hiện mà anh linh cảm thấy là rất quan trọng.
Chỉ có điều anh hoàn toàn không biết ý nghĩa của nó là gì.
Chút bằng chứng duy nhất cho thấy dấu hiệu của dư chất thuốc nổ từ quả bom là những mẩu vụn ti li của một chất rất dẻo màu be. Mấy phân tích vật chất bằng sắc ký khí/phổ kế khối lượng cho thấy đó là chất C5H8.
“Isoprene”, Cooper thông báo.
“Là chất gì vậy?”, Sachs đã hỏi ngay.
“Cao su”, Rhyme trả lời.
Cooper nói tiếp. “Tôi cũng nhận thấy có một số acid béo. Thuốc nhuộm, bột tan.”
“Có chất làm cứng nào không?”, Rhyme hỏi. “Đất sét? Magnesium carbonate? Oxide kẽm?”
“Chẳng có gì.”
“Có nghĩa đây là cao su mềm. Như latex.”
“Và cả những mẩu vụn nhỏ của keo gắn cao su nữa”, Cooper bổ sung; căng mắt quan sát một mẫu hợp chất qua ống kính hiển vi điện tử. “Bingo[99]!” Anh thốt lên.
“Đừng có đùa bỡn nữa, Mel”, Rhyme làu bàu.
“Có mấy mẩu chất hàn và những vụn li ti bằng nhựa nằm lẫn trong cao su. Bảng mạch điện.”
“Nằm trong thiết bị hẹn giờ chăng?”, Sachs nói ra mối băn khoăn của mình.
“Không, thiết bị hẹn giờ còn nguyên vẹn kia mà”, Rhyme nhắc cô.
Anh có cảm giác họ đang chuẩn bị phát hiện được điều gì đó rất quan trọng. Nếu như đây là một phần của quả bom, rất có thể nó sẽ cho họ biết thêm một đầu mối về nguồn gốc của loại thuốc nổ được sử dụng hoặc một thành phần nào đó.
“Chúng ta phải xác định chắc chắn liệu những cái này là từ quả bom hay từ chính chiếc máy bay. Sachs, tôi muốn cô chịu khó tới sân bay một chuyến.”
“Sân bay…”
“Mararoneck. Hãy tìm Percey và yêu cầu cô ấy cung cấp cho cô mẫu của tất cả những thứ có thành phần chứa latex, cao su, hoặc những mạch điện được gắn ở bụng của chiếc máy bay giống như chiếc mà Carney đã lái ấy. Gần vị trí quả bom phát nổ. Còn anh, Mel, hãy gửi những thông tin này tới ERC, rồi kiểm tra luôn cả ở Cục Điều tra Hình sự Quân đội – biết đâu bên quân đội lại sử dụng thiết bị nổ nào đó có bọc lớp vỏ latex chống thấm nước thì sao. Có thể từ đó chúng ta sẽ lần ra nguồn gốc của quả bom.”
Cooper bắt đầu gõ lệnh kiểm tra trên máy tính, nhưng Rhyme để ý thấy Sachs có vẻ không được hài lòng cho lắm với nhiệm vụ của mình.
“Anh muốn tôi đến gặp và nói chuyện với chị ta sao?”, cô hỏi. “Với Percey ấy?”
“Đúng. Đó chính là những gì tôi đang nói đấy thôi.”
“Được rồi.” Cô thở dài. “Chẳng sao cả.”
“Và đừng có gây khó dễ gì cho cô ấy như cô vẫn làm từ đầu đến giờ. Chúng ta cần sự hợp tác của cô ấy.”
Rhyme hoàn toàn không hiểu tại sao cô lại giật lấy chiếc áo giáp chống đạn của mình một cách cực kỳ giận dữ và hầm hầm bước thẳng ra khỏi phòng mà không thèm nói cả lời tạm biệt.
Chú thích
[97]Đạn đầu khoét lõm: Loại đầu đạn không nhọn hoắt như thông thường, mà hơi lõm xuống, tăng khả năng sát thương.
[98]ATIS (viết tắt của Automatic Terminal Information Service): Dịch vụ Thông tin Tự động khu vực sân bay.
[99]Bingo: Một trò xổ số rất phổ biến ở Mỹ, được chơi với những tấm các có đánh số. Người chơi thường hô “Bingo” để báo mình là người trúng giải.