Mắt chăm chú theo dõi những đồng hồ thiết bị.
“Cánh đuôi 15 độ, 15, đèn xanh”, cô nói, nhắc lại thông số để đặt góc cánh đuôi.
Theo đúng quy định phải nhắc lại mọi mệnh lệnh, Brad nói “Cánh đuôi 15 độ, 15, đèn xanh”.
Kiểm soát Không lưu gọi tới, “Learjet 95 Foxtrot Bravo, rẽ vào vị trí. Đủ điều kiện cất cánh, đường băng 05 trái”.
“Đường băng 05 trái, Foxtrot Bravo. Đủ điều kiện cất cánh.”
Brad hoàn tất danh sách kiểm tra cất cánh. “Áp suất, bình thường. Chế độ lựa chọn nhiệt độ tự động. Đèn tiếp sóng và bên ngoài đều bật sáng. Đèn khởi động, đèn báo nhiệt độ và áp suất, đèn nhấp nháy đều bật sáng, đến lượt chị.”
Percey kiểm tra những đèn điều khiển đó và khẳng định, “Đèn khởi động, đèn áp suất, đèn nhấp nháy đều bật.”
Cô rẽ chiếc Lear vào đường băng cất cánh, chỉnh thẳng bánh xe dưới mũi máy bay, căn thẳng với đường kẻ chính giữa đường băng. Cô liếc nhìn la bàn. “Tất cả kim báo đều hiển thị hướng 05. Đường băng 05 bên trái. Tôi đang đặt mức năng lượng.”
Cô đẩy mạnh cần tăng ga về phía trước. Chiếc máy bay bắt đầu lao nhanh trên dải đường băng bê tông. Cô cảm thấy tay mình đang nắm chặt lấy cần tăng ga ngay dưới ghế.
“Mức năng lượng đã đặt xong.” Rồi Brad lại hô to, “Đã có tộc độ bay”, lúc này những chiếc kim chỉ tốc độ bay bắt đầu bật lên và tăng dần, 20 knot, 40 knot…
Cần tăng tốc đã gần chạm ngưỡng, chiếc máy bay lao vun vút về phía trước. Cô nghe thấy một tiếng “ối chà…” từ Roland Bell và cố nín cười.
50 knot, 60 knot, 70…
“80 knot”, Brad hô to, “kiểm tra chéo”.
“Đã kiểm tra”, cô trả lời sau khi đã liếc qua đồng hồ hiển thị tốc độ bay.
“Tốc độ 1”, Brad lại hô to. “Hoán đổi.”
Percey bỏ bàn tay phải ra khỏi cần tăng tốc và nắm lấy cần lái. Cho đến lúc đó vẫn còn đang rung bần bật, chiếc cần lái bằng nhựa cứng đột nhiên dừng phắt lại vì sức ép của không khí. Cô từ từ kéo cần lái về sau, nâng mũi chiếc Lear chếch lên trên tới độ nghiêng tiêu chuẩn 7,5 độ. Những động cơ vẫn tiếp tục gầm lên rất êm và cô lại kéo nhẹ cần lái thêm chút nữa, tăng độ chếch của mũi máy bay lên thành 10 độ.
“Tốc độ hữu dụng”, Brad thông báo.
“Tăng số. Nâng cánh đuôi. Dựng đuôi giữ thẳng hướng.”
Giọng của nhân viên Kiểm soát Không lưu vang lên qua tai nghe. “Lear 95 Foxtrot Bravo, rẽ trái theo hướng 280. Liên lạc với bộ phận Kiểm soát Máy bay đi.”
“280, Lear 95 Foxtrot Bravo. Xin cảm ơn.”
“Chúc buổi tối may mắn.”
Kéo cần lái thêm chút nữa, 11 độ, 12, 14… Để mức năng lượng ở điều kiện cất cánh, cao hơn mức bình thường, thêm vài phút. Nghe rõ âm thanh xoáy tít thật vui tai của những cánh quạt tua bin phía sau, luồng khí phản lực đẩy vùn vụt.
Và ở trong chiếc kim bạc thon thả này, Percey Clay cảm thấy mình đang lao vút lên giữa không trung, bỏ lại đằng sau tất cả những phiền muộn, nặng nề và đau đớn. Bỏ lại đằng sau cái chết của Ed và Brit, và thậm chí bỏ lại đằng sau kẻ khủng khiếp đó, con quỷ, tên Vũ công quan tài. Tất cả những nỗi đau, tất cả những gì mong manh, tất cả những gì xấu xa nhất đều bị quẳng lại tít dưới kia, và cô hoàn toàn tự do. Kể ra cũng không công bằng lắm khi cô có thể trốn thoát khỏi những gánh nặng nặng nề đó một cách dễ dàng như thế này, nhưng đó là sự thật. Vì người phi công Percey Clay đang ngồi trên ghế bên trái trong buống lái chiếc Lear N695FB không còn là Percey Clay – người phụ nữ lùn tịt với khuôn mặt ngắn bè bè, hay Percey Clay – cô gái chỉ có một điểm duy nhất hấp dẫn đàn ông là món tiền kếch sù từ kinh doanh thuốc lá của ông bố. Không còn Per-ceee Mặt chó pug, Percey Xấu xí, Percey Quỷ lùn, con bé tóc đen khốn khổ vật lộn với đôi găng tay điệu đàng trong buổi khiêu vũ mừng tuổi thiếu nữ của chính mình, trên cánh tay của người anh họ như chết rồi vì xấu hổ, xung quanh là những cô nàng tóc vàng yểu điệu đang hất đầu về phía cô với nụ cười thích thú và thi nhau chỉ trỏ chuẩn bị ột bữa tiệc đàm tiếu sau này.
Đó không phải là Percey Clay thực sự.
Đây mới đúng là cô.
Lại một tiếng thở khó nhọc của Roland Bell. Chắc chắn anh đã nhòm trộm ra ngoài ra rèm cửa sổ trong lúc họ thực hiện cú nghiêng cánh đáng sợ.
“Đài Kiểm soát Rời đi[102] của Sân bay Mamaroneck, Lear 95 Foxtrot Bravo đang gọi từ độ cao ngoài 2000 feet.”
“Xin chào, 95 Foxtrot Bravo. Tiếp tục bay lên và duy trì ở độ cao 6000 feet.”
Và sau đó họ bắt đầu công việc rất nhàm chán là thiết lập đường liên lạc hoa tiêu bằng sóng VOR[103] cao tần để được hướng dẫn đường bay tới Chicago thẳng tắp như đường tên bay của một võ sĩ samurai.
Ở độ cao 6000 feet họ bay xuyên qua lớp mây bao phủ để hoà vào cảnh bầu trời kỳ vĩ như bất kỳ cảnh mặt trời lặn nào mà Percey từng chứng kiến. Mặc dù không hẳn là người yêu thích cuộc sống ngoài trời, cô vẫn chưa bao giờ thấy chán khi nhắm nhìn những khung cảnh bầu trời tuyệt đẹp. Percey tự cho phép mình chỉ nghĩ đến một cảm xúc ủy mị duy nhất – kể sẽ rất tốt nếu như khung cảnh cuối cùng mà Ed nhìn thấy cũng ngoạn mục như lúc này.
Ở độ cao 21000 feet cô nói, “Máy bay của cậu đấy”.
Brad trả lời, “Rất sẵn sàng”.
“Cà phê nhé?”
“Có một chút thì tốt.”
Cô bước về phía sau của chiếc máy bay, rót lấy ba cốc cà phê, chuyển một cốc cho Brad, rồi ngồi xuống bên cạnh Roland Bell, viên cảnh sát cầm lấy cốc cà phê trong hai bàn tay run rẩy.
“Anh cảm thấy thế nào?”, cô nói.
“Cũng không hẳn là tôi bị say máy bay. Chẳng qua là tôi thấy” – anh nhăn mặt khổ sở – “hừm, hồi hộp như thể…”. Có lẽ phải có đến cả nghìn cách so sánh sinh động kiểu Tarheel để lựa chọn, nhưng không hiểu sao lần này cái cách nói miền Nam dí dỏm cũng bỏ anh đi mất. “Chỉ là hồi hộp”, anh kết luận.
“Hãy nhìn kìa”, cô nói, và chỉ ra ngoài cửa sổ buồng lái.
Anh rướn người về phía trước trong ghế của mình và nhìn ra ngoài cửa kính. Cô thích thú nhìn khuôn mặt nhăn nhó của anh bỗng dãn ra sáng bừng vì kinh ngạc khi họ đang bay vào giữa khung cảnh hoàng hôn vô tận.
Bell trầm trồ. “Chà, tuyệt thật. Hãy nhìn mà xem… Nhưng cũng phải nói thật, hình như đó là một cú cất cánh hơi gấp gáp quá thì phải.”
“Nó là một con chim hết sảy đấy chứ. Anh có bao giờ nghe nói đến Brooke Knapp không?”
“Tôi không nghĩ là mình đã nghe rồi.”
“Một nữ doanh nhân ở California. Người lập kỷ lục về bay vòng quanh thế giới trong thời gian ngắn nhất bằng một chiếc Lear 35A – cũng là loại máy bay mà chúng ta đang bay lúc này. Bà ấy bay mất tất cả hơn 50 giờ một chút. Sẽ có ngày tôi phá kỷ lục đó.”
“Điều đó thì tôi không nghi ngờ.” Lúc này anh đã bình tĩnh hơn. Mắt hướng vào những thiết bị điều khiển. “Trông có vẻ phức tạp kinh khủng nhỉ?”
Cô nhấp một ngụm cà phê. “Có một mẹo nhỏ trong khi bay mà chúng tôi không nói cho ai biết. Có thể coi đó là một bí quyết nhà nghề. Nó đơn giản hơn rất nhiều so với những gì anh nghĩ đấy.”
“Như thế nào?”, anh sốt sắng hỏi. “Bí quyết đó là gì?”
“À, hãy nhìn ra ngoài nhé. Anh có nhìn thấy những ánh đèn màu ở hai đầu cánh máy bay không?”
Anh không muốn nhìn lắm, nhưng rồi cũng tò mò làm theo. “OK, tôi thấy rồi.”
“Có cả một cái đèn ở phần đuôi nữa.”
“Ừ hứ. Nhớ là tôi đã nhìn thấy nó rồi thì phải, tôi nghĩ thế.”
“Tất cả những gì chúng tôi phải làm là luôn đảm bảo làm sao chúng tôi có thể giữ áy bay ở giữa những chiếc đèn kia và mọi chuyện sẽ đâu vào đấy.”
“Ở giữa…” Phải mất vài giây anh mới chợt hiểu đó là một câu nói đùa. Anh chằm chằm nhìn bộ mặt tỉnh bơ của cô hồi lâu rồi mỉm cười. “Cô đánh lừa được khối người bằng trò này, đúng không?”
“Cũng kha khá.”
Nhưng trò đùa đó cũng không thực sự làm anh thấy thích thú hơn. Mắt anh vẫn dán chặt xuống lớp thảm trải sàn. Sau một hồi in lặng kéo dài cô khẽ nói, “Brit Hale hoàn toàn có thể từ chối ngay từ đầu, Roland ạ. Anh ấy hiểu rõ những nguy hiểm mà”.
“Không, anh ấy không biết”, Bell trả lời. “Hoàn toàn không. Anh ấy đồng ý làm theo những gì chúng tôi toan tính trong đầu mà không hoàn toàn hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Lẽ ra tôi đã phải suy nghĩ khôn ngoan hơn. Lẽ ra tôi đã phải đoán ra chuyện liên quan đến những chiếc xe cứu hoả. Lẽ ra tôi đã phải đoán được rằng tên giết người sẽ biết phòng của hai người ở đâu. Lẽ ra tôi đã có thể đưa hai người xuống tầng hầm, hoặc nơi nào đó. Và lẽ ra tôi phải bắn chính xác hơn.”
Bell có vẻ tuyệt vọng đến nỗi Percey không nghĩ ra được điều gì để an ủi anh. Cô đặt bàn tay đầy gân của mình lên cánh tay anh. Trông anh có vẻ gầy, nhưng thực tế thì anh rất khoẻ mạnh.
Đột nhiên anh khẽ bật cười. “Cô có biết chuyện này không?”
“Chuyện gì?”
“Đây là lần đầu tiên tôi thấy cô tạm gọi là thoải mái nhất kể từ khi tôi gặp cô đến giờ.”
“Đây là nơi duy nhất tôi cảm thấy thực sự thoải mái như ở nhà”, cô nói.
“Chúng ta đang bay với vận tốc 200 dặm một giờ và cách mặt đất cả dặm vậy mà cô lại cảm thấy an toàn”, Bell thở dài.
“Không, chúng ta đang bay với vận tốc 400 dặm một giờ, ở độ cao bốn dặm.”
“Ra thế. Cảm ơn vì đã chia sẻ điều đó.”
“Có một câu mà cánh phi công vẫn nói”, Percey nói. ‘“Thánh Peter[104] không bao giờ đếm quãng thời gian cho việc bay, nhưng ông tính gấp đôi số giờ bạn dành ở trên mặt đất.”’
“Buồn cười đấy”, Bell nói. “Chú tôi cũng nói một câu tương tự như thế. Chỉ có điều ông dùng câu này khi nói về thú đi câu của mình thôi. Dù thế nào tôi cũng bỏ phiếu ủng hộ phiên bản của ông ấy hơn là cô. Đừng có tự ái đấy.”
Chú thích
[101] Rolling takeoff: Có nghĩa là máy bay cất cánh thẳng sau khi rời khỏi hangar và lăn bánh trên đường băng, không phải dừng ở vị trí xuất phát và chờ lệnh của trạm Kiểm soát không lưu sân bay.
[102] Đài Kiểm soát Rời đi: Đài Kiểm soát không lưu ở sân bay vừa cất cánh.
[103] VOR: Tức sóng radio cao tần có tác dụng theo mọi hướng.
[104] Thánh Peter: Được coi là người gác cổng vào thiên đường, và sẽ căn cứ vào những việc tốt hoặc tội lỗi của các linh hồn rồi đưa ra quyết định liệu họ có xứng đáng được sống ở thiên đường hay không.