JUDAS ĐI TỐ CÁO
Dazai Osamu
Bẩm quan. Thưa quan. Ông ấy tàn nhẫn. Tàn nhẫn lắm. Dạ, nó là thằng đáng ghét. Con người xấu xa. Ôi thôi, không chịu nổi. Không thể để nó sống được.
Dạ, dạ. Để tôi lấy bình tĩnh bẩm với quan. Không thể để ông ấy sống được. Ông ấy là kẻ thù của thế gian. Dạ, bất cứ chuyện gì, tôi cũng nói hết, nói tất cả. Tôi biết chỗ ông ấy ở. Tôi sẽ dẫn đường. Băm vằm đi, giết ông ấy đi. Ông ấy là thầy của tôi. Là Đức Chúa. Nhưng cùng tuổi với tôi. Ba mươi bốn tuổi. Tôi chỉ sanh sau ông ấy có hai tháng. Không khác nhau bao nhiêu. Giữa con người với con người, làm sao có sự kì thị tàn nhẫn như thế đó được. Vậy mà, cho đến ngày hôm nay, ông ấy đã bắt tôi làm việc cực nhọc chẳng nương tay, thật là ác độc. Mỉa mai tôi, coi thường tôi hết cỡ. Ôi thôi, không chịu nổi. Tôi đã ráng chịu đến chỗ mà mình còn có thể chịu được. Khi cần phải giận mà không giận thì còn gì là con người nữa. Từ trước đến nay, tôi đã âm thầm bảo vệ ông ấy không biết bao nhiêu lần. Có ai biết đâu. Chính ông ấy, ông ấy cũng không biết. Không, nhất định ông ấy phải biết. Biết rõ ràng. Chính vì biết nên ông ấy càng tỏ ra cố tình khinh bỉ tôi. Ông ấy kiêu căng. Ông ấy nhờ tôi giúp quá nhiều nên ông ấy thấy tức mình. Ông ấy tự kiêu đến độ ngớ ngẩn. Ông ấy cứ đinh ninh việc được tôi giúp đỡ như là điều nói lên sự thấp kém tồi tệ của bản thân mình. Ông ấy muốn được mọi người nghĩ rằng ông ấy làm được mọi việc. Chuyện thật là khùng. Thế gian đâu phải như thế. Muốn sống được trong đời này, có lúc phải dập đầu như tế sao một người nào đó, có lúc không còn cách nào hơn là phải chịu khó lần hồi chèn ép người ta mà sống. Ông ấy làm được cái gì chứ? Không làm được cái gì ráo. Dưới mắt tôi, ông ấy chỉ là một đứa trẻ non nớt. Nếu không có tôi, ông ấy và đám đệ tử bất tài, ngờ nghệch chắc chắn đã chết bờ chết bụi ở đâu đó từ lâu rồi. “Cáo có hang, chim có tổ, nhưng con người ta thì không có chỗ để gối đầu”. Câu đó, câu đó, câu đó đó. Thật là khó chịu khi phải kể hết mọi chuyện. Thằng Peter nó làm được cái gì chứ? James, John, Andrew, Thomas, toàn là bọn ngu đần, đi dài dài theo sau ông ấy, nói toàn chuyện nịnh bợ mùi mẫn nghe mà lạnh xương sống, nào là chuyện thiên đàng, bọn nó sốt sắng tin tưởng một cách say sưa mấy thứ tầm phào như thế, nếu tiến gần được đến thiên đàng, chắc bọn nó định trở thành nhiếp chính đại thần hết cả à, cái bọn ngu ngốc đó. Ngày ngày thiếu bánh mì, nếu không có sự xoay xở của tôi thì cả bọn chỉ còn cách chết đói thôi, phải không hả? Tôi cứ để cho ông ấy thuyết giáo, trong khi đó tôi lẩn mình đi thuyết phục quần chúng để thâu tiền cúng điếu, hoặc gom góp vật dụng từ những người giàu có trong làng, từ chuyện lo liệu nơi ăn chỗ ở đến chuyện đi mua quần áo hằng ngày, bất kể nhọc nhằn, điều gì tôi cũng làm hết, vậy mà ông ấy thì đã đành rồi, cả bọn đệ tử ngu ngốc kia không có ai nói một lời cám ơn với tôi. Không những không nói cám ơn, ông ấy còn giả vờ như không biết chuyện khổ nhọc thầm kín hằng ngày của tôi, lúc nào ông ấy cũng nói toàn những chuyện xa xỉ hết mức, ngay cả khi chỉ có hai con cá và năm ổ bánh mì, ông ấy đã ra lệnh cho tôi chuyện khó khăn động trời là chia thức ăn cho tất cả đám quần chúng trước mặt. Sau lưng ông ấy, tôi đã phải xoay xở hết sức cực nhọc, bằng cách này cách kia mới mua được đầy đủ thức ăn. Phải nói rằng, từ trước đến nay tôi đã nhiều lần giúp ông ấy tạo ra những phép lạ, làm những ảo thuật không chắc thành công cho lắm. Coi vậy chớ tôi đây nhất định không phải là người bủn xỉn đâu. Ngược lại, tui còn là người có sở thích rất thanh cao. Tôi nghĩ ông ấy là người tốt. Dưới mắt tôi, ông ấy giống như một đứa con nít, không tham lam, nên dẫu tôi có nhọc công dành dụm tiền bạc mỗi ngày để mua bánh mì, cũng liền bị ông ấy xài lãng phí không chừa một cắc nào, nhưng tôi không có hận ông ấy đâu. Ông ấy là người tốt. Tôi gốc là một lái buôn nghèo, nhưng tôi nghĩ mình hiểu được tâm tình của những người sống bằng tinh thần. Cho nên, dẫu ông ấy có tiêu phí tiền của mà tôi khổ tâm để dành từng chút vào những chuyện chẳng ra gì đi nữa, tôi cũng không để ý. Không để ý nhưng tôi nghĩ, vậy thì, đôi lúc có một vài câu nói êm ái với tôi thì cũng được chứ, đằng này, ông ấy lúc nào cũng tỏ vẻ xấu bụng với tôi. Một lần vào mùa xuân, trong lúc lang thang trên bãi biển, bất ngờ ông ấy gọi tôi đến bảo. “Tao được mày giúp đỡ nhiều. Tao hiểu cái buồn của mày. Nhưng, không nên làm mặt khó chịu mãi như vậy được. Lúc buồn làm ra mặt buồn, đó là cách làm của kẻ ngụy thiện. Đó chỉ là việc cố ý thay đổi sắc mặt cho người ta thấy, cho người ta biết cái buồn của mình. Nếu thực sự mày tin ở thượng đế, dẫu trong lúc buồn, mày cần phải giả bộ như không biết, rửa mặt mày sạch sẽ, bôi dầu lên đầu, cứ mỉm cười là được. Hiểu không hả? Dẫu người khác không biết được cái buồn của mày, nhưng chỉ cần cha thật của mày, ở một nơi nào đó mà mắt mày không thấy, biết được lòng mày thì cũng đủ mãn nguyện rồi chứ. Không phải vậy sao? Buồn, người nào cũng có hết.”. Ông ấy nói như vậy đó. Nghe vậy, không biết tại sao tôi lại muốn phát khóc, không phải vậy đâu thầy ơi, dẫu cha trên trời không hiểu được tôi, hoặc thế gian không biết tôi đi nữa, chỉ cần một mình thầy, nếu thầy hiểu tôi, vậy là được rồi. Tôi yêu thương thầy. Tôi yêu thương thầy tới độ, dẫu những đệ tử khác có yêu thương thầy sâu đậm thế nào đi nữa, cũng không thể so sánh với tôi được. Tôi yêu thương thầy hơn bất cứ ai. Tụi thằng Peter, James, tụi nó nghĩ rằng đi theo thầy chắc sẽ có điều hay, tụi nó chỉ nghĩ đến chuyện đó. Nhưng chỉ có một mình tôi biết được. Tôi biết dẫu có đi theo thầy đi chăng nữa cũng chẳng có lợi ích gì hết. Vậy mà, tôi không thể rời khỏi thầy. Tại sao vậy? Nếu thầy không còn ở thế gian này, tôi sẽ chết ngay lập tức. Không thể nào sống được. Lúc nào tôi cũng thầm kín nghĩ đến một điều. Đó là việc thầy từ bỏ bọn đệ tử chẳng ra gì, thôi giảng những điều gọi là lời dạy của cha trên trời, để thành một thường dân khiêm tốn, sống suốt một cuộc đời yên bình với mẹ Maria và tôi. Tôi còn giữ một ngôi nhà nhỏ ở trong làng. Còn có cha mẹ già. Cũng còn có một vườn đào khá rộng. Mùa xuân, lúc này hoa đào nở thật đẹp. Có thể sống nhàn nhã suốt đời được. Lúc nào tôi cũng sẽ ở bên cạnh thầy giúp thầy mọi việc. Mong thầy lấy được một người vợ tốt. Khi tôi nói như vậy, ông ấy cười khỉnh. “Peter và Simon là bọn đánh cá. Tụi nó làm gì có vườn đào đẹp. James và John cũng là bọn đánh cá nghèo mạt. Bọn nó sao mà có được một mảnh đất để sống nhàn nhã suốt đời.” Ông ấy nhỏ giọng lầm bầm một mình rồi tiếp tục lặng lẽ đi trên bãi biển. Chỉ có lần đó là tôi có dịp trao đổi chuyện tâm tình với ông ấy. Về sau, không bao giờ ông ấy thổ lộ với tôi một điều gì nữa. Tôi yêu thương ông ấy. Nếu ông ấy chết, tôi cũng sẽ chết theo. Ông ấy không là của ai hết. Ông ấy là của tôi. Nếu bắt buộc phải giao ông ấy cho người khác, trước khi giao, tôi sẽ giết ông ấy. Tôi đã bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, để đi theo ông ấy cho đến bây giờ. Tôi không tin có thiên đàng. Cũng không tin có thượng đế. Chuyện ông ấy phục sinh, tôi cũng không tin. Tại sao ông ấy lại là vua của Israel. Bọn đệ tử ngu đần tin ông ấy là con của thượng đế, nghe ông ấy nói đến cái gọi là phúc âm của nước trời, cả bọn vui sướng lồng lộn đến độ xấu hổ. Tôi biết bây giờ cả bọn nó đều thất vọng. Ông ấy đã hứa sẽ làm cho kẻ để cái tôi lên cao phải xuống thấp, và sẽ nâng kẻ coi mình thấp lên cao, nhưng, trong đời làm gì có chuyện dễ dãi như vậy. Ông ấy là kẻ nói láo. Nói thật nhiều nhưng từ một đến mười đều là nói càn nói bậy. Từ đầu, tôi đã không tin những chuyện đó. Tôi chỉ tin vào cái lòng tốt của ông ấy. Trong đời này không có người nào tốt như vậy. Tôi thành thật yêu cái lòng tốt của ông ấy. Chỉ có vậy thôi. Tôi không nghĩ đến chuyện được trả ơn. Tôi cũng không có tâm tính hèn mọn nghĩ rằng cứ đi theo ông ấy, sớm muộn rồi cũng sẽ được đến gần thiên đàng, chính lúc đó, mình sẽ vinh quang trở thành quan đại thần cho thiên hạ biết. Chỉ có điều là tôi không muốn rời ông ấy. Chỉ cần được ở bên cạnh ông ấy, được nghe ông ấy nói, được nhìn hình dáng của ông ấy, thế là đủ rồi. Và nếu được, kêu ông ấy bỏ chuyện thuyết giáo, cùng với tôi, chỉ hai người thôi, sống suốt đời mãi mãi bên nhau. Ôi, nếu được như vậy! Tôi sẽ hạnh phúc biết bao. Tôi chỉ tin cái vui của hiện thế, cái bây giờ, cái ngay đây. Chuyện phán quyết của đời sau, tôi không mảy may sợ sệt. Sao ông ấy không chịu tiếp nhận tình cảm chân thành, không vụ lợi của tôi. Thôi, giết ông ấy đi. Thưa quan. Tôi biết chỗ ông ấy ở. Tôi xin dẫn đường. Ông ấy khinh miệt tôi, ghét tôi. Tôi bị ghét bỏ. Tôi giúp ông ấy và bọn đệ tử ăn uống, ngày ngày cứu họ khỏi đói khát, thế tại sao ông ấy lại khinh bỉ, đối xử xấu xa với tôi như thế. Xin quan lắng nghe. Chuyện sáu ngày hôm trước. Lúc ông ấy dùng cơm trong nhà của Simon ở Bethany. Con em của con Martha ở trong xóm đó, tên là Mary mang một bình đá vôi đựng đầy dầu thơm cam-tùng, lén vào trong phòng tiệc, rồi bất ngờ đổ dầu lên đầu ông ấy, làm ướt đến chân. Vậy mà không những không xin lỗi, nó còn bình tĩnh khom lưng lấy tóc của mình kỹ lưỡng lau hai chân ướt của ông ấy. Mùi dầu thơm bốc lên đầy phòng, thật là một cảnh bất thường cho nên tôi cảm thấy hết sức tức giận, nạt đứa em gái đó là đồ vô lễ. Đây này, áo quần bị ướt hết như thế này, dầu quý đắt tiền bị đổ hết, mày không thấy uổng hay sao? Mày, thật là dại dột hết sức. Số dầu đó, giá tới 300 dinarii phải không, bán số dầu đó sẽ có được 300 dinarii, lấy số tiền đó cho dân nghèo, bọn chúng sẽ hết sức sung sướng. Sao lại hoang phí như vậy. Tôi đã rầy con bé dữ dội. Bởi vậy cho nên ông ấy đã quắc mắt nhìn tôi. “Không được rầy con đàn bà này. Con đàn bà này đã làm một việc thật tốt. Chuyện bố thí tiền bạc cho người nghèo, từ đây trở đi tụi bây còn có nhiều dịp để làm. Nhưng ta, ta không còn bố thí được nữa. Không cần phải nói lí do làm gì. Chỉ có một mình con đàn bà này biết được. Con đàn bà này rót dầu lên thân ta là để chuẩn bị cho đám táng của ta. Tụi bây cũng cần nên nhớ chuyện này. Trên thế giới, bất cứ nơi đâu, nếu có chỗ nói đến cuộc đời ngắn ngủi của ta, chắc chắn ở đó, hành động của con đàn bà này ngày hôm nay cũng sẽ được lưu truyền như một kỉ niệm.” Nói xong, đôi má trắng xanh của ông ấy như lấy được sinh khí đỏ ửng lên. Tôi không tin lời ông ấy. Tôi nghĩ chẳng qua đây cũng chỉ là vở kịch khoác lác như mọi khi, nên đã có thể nghe suông không một chút ngần ngại. Nhưng, không phải chuyện đó mà là chuyện khác kìa. Lúc đó, tôi cảm thấy trong giọng nói, ánh mắt của ông ấy, có cái gì đó lạ thường mà từ trước đến nay không có. Tôi chợt bối rối, một lần nữa tôi đã chăm chú nhìn lại đôi má hơi ửng đỏ và đôi mắt rớm lệ của ông ấy, bất ngờ tôi đoán ra được một việc. Đúng rồi, thật là khả ố, làm sao mà nói ra được đây. Ông ấy, đã… yêu con đàn bà nhà quê nghèo nàn này rồi, không phải vậy đâu, làm gì có chuyện đó, nhất định không có chuyện đó, nhưng… thế nhưng, nguy thật, ông ấy không có tình cảm ám muội như là yêu đương hay sao? Một người như ông ấy, nếu có tình cảm đặc biệt với con đàn bà có dáng điệu nhà quê dốt nát đó, thì đây đúng là một lầm lỡ đáng sợ. Một xì-căng-đan vô phương cứu chữa. Tôi, bẩm sinh là một tên đàn ông có tài đánh hơi được những tình cảm nhơ nhuốc của người khác. Tôi biết đó là cái khứu giác hạ tiện nên không thích nhưng tôi có biệt tài là chỉ cần nhìn liếc qua một lần, đã có thể đoán được trúng tẩy chỗ yếu của người khác. Chắc chắn nhất định ông ấy có tình cảm đặc biệt với con đàn bà nhà quê vô học đó. Con mắt của tôi nhất định không sai. Chắc chắn như vậy. Ôi, không chịu được. Không thể nào kiên nhẫn được. Tôi nghĩ với tình cảnh như thế nầy, giờ đây ông ấy đã trở thành vô dụng. Thật là vô cùng khó coi. Từ trước đến nay, dẫu có thật thích người đàn bà nào đó đi nữa, lúc nào ông ấy cũng đẹp, im lìm như mặt nước. Một chút rối loạn nhỏ cũng không có. Khôn quá đâm ra ngu. Không còn kìm hãm được mình. Dẫu sao ông ấy vẫn còn trẻ, nên cũng có thể nói đó là chuyện có lí, nhưng nếu vậy thì tôi đây, tôi cũng bằng tuổi ông ấy. Tôi lại sinh ra sau ông ấy hai tháng. Về mặt trẻ trung, nhất định không khác nhau. Dẫu thế tôi vẫn cam chịu. Tôi dâng tấm tình của tôi ột mình ông ấy, từ trước đến nay tôi không hề động lòng với bất cứ người đàn bà nào. Con chị tên Martha là người đàn bà quê mùa, xương xẩu cứng cáp, to lớn như bò, tính tình thô lỗ, chỉ giỏi ở chỗ đi đứng lăng xăng, ngoài ra không có chỗ nào coi được. Khác với chị mình, Mary em gái của Martha là người con gái kiêu kỳ đến độ mọi người trong xóm đều thấy lạ lùng, là người có xương xẩu nhỏ nhắn, da trắng xanh đến độ trong suốt, tay chân thon mềm, mắt to trong vắt như nước hồ sâu, lúc nào cũng chăm chăm nhìn xa xôi như đang mơ mộng. Ngay như tôi, tôi cũng đã thầm nghĩ. Mong rằng khi nào có dịp đi ra phố, mình sẽ lánh mặt mọi người, tìm một vật gì đó chẳng hạn như lụa trắng, mua tặng cô ta. Ôi, thôi, bộ tôi phát điên rồi sao. Không biết mình đã nói cái gì. Đúng rồi, tôi bực mình. Lí do gì? Không biết. Tôi tức mình muốn dậm chân xuống đất. Ông ấy trẻ, tôi đây cũng trẻ. Tôi là một thanh niên đàng hoàng, có tài, có ruộng vườn nhà cửa. Dẫu vậy, tôi đã bỏ tất cả mọi đặc quyền của tôi để theo ông ấy. Tôi đã bị lừa. Ông ấy là tên dối trá. Thưa quan. Ông ấy đã cướp người yêu của tôi. Bậy, sai rồi! Con đàn bà đó đã cướp ông ấy khỏi tay tôi. À, cái đó cũng trật rồi. Chuyện tôi nói tất cả đều bậy bạ. Đừng tin tôi. Chắc tôi điên rồi. Cho tôi xin lỗi. Bất ngờ tôi đã nói toàn những chuyện vô căn cứ. Những chuyện nông nổi như vậy, một chút cũng không có. Tôi đã tiết lộ những chuyện khó coi. Nhưng tôi tức tối. Tức mình đến độ muốn cào ngực mình. Lí do gì, không biết được. Ôi, tính ganh tị thật là một tính xấu không chịu được. Cho đến hôm nay, tôi đã quyết bỏ cả sinh mạng của mình để đi theo, phục tùng ông ấy, thế mà ông ấy không có một lời êm ái đối với tôi, ngược lại ông ấy ra sức bảo vệ đến độ đỏ mặt hành động của con đàn bà nhà quê hèn mọn như thế đó. Ôi, đúng rồi, ông ấy không còn kìm hãm được mình. Khôn quá đâm ra ngu. Thôi, không còn hi vọng gì ở ông ấy. Đồ phàm phu. Chỉ là một người thường. Dẫu chết cũng không luyến tiếc. Cảm thấy như vậy, bất ngờ tôi bắt đầu nghĩ đến một điều đáng sợ. Chắc đã bị ma quái dụ dỗ. Từ lúc đó tôi đã quyết sẽ giết ông ấy bằng chính tay mình. Đằng nào, nhất định ông ấy sẽ bị giết. Chính ông ấy, đôi lúc có vẻ như ông ấy cố tình tạo điều kiện cho người ta giết mình. Tôi sẽ giết dùm cho bằng chính tay tôi. Tôi không muốn để cho người khác giết. Giết ông ấy, rồi tôi cũng chết theo. Thưa quan, khóc lóc như vầy thật mắc cỡ. Dạ, tôi không khóc lóc nữa. Dạ, dạ. Lấy lại bình tĩnh, tôi xin thưa. Ngày hôm sau, cuối cùng chúng tôi đã lên đường nhắm về hướng Jerusalem mà chúng tôi hằng ao ước. Đông đảo quần chúng, già có, trẻ có, nối đuôi đi theo ông ấy, khi đến gần điện Jerusalem, tìm được một con lừa già yếu bên vệ đường, ông ấy mỉm cười leo lên lưng lừa và với gương mặt tươi tắn, ông ấy đã nói với bọn đệ tử rằng việc này đã xảy ra đúng như đã được tiên tri. “Hỡi những nàng con gái của Sion ơi! Không nên sợ, hãy nhìn đây, vua của ngươi đang trên lưng lừa đến đấy.” Nhưng chỉ có một mình tôi cảm thấy không vui. Thật là một tình cảnh đáng tội nghiệp. Lâu nay, ông ấy đã trông đợi dài cả cổ ngày lễ Passover đến để đi vào điện Jerusalem. Đây là hình dáng đứa con của David đấy à. Hình dáng đẹp đẽ mà ông mong ước suốt đời là quang cảnh đáng thương ngồi trên lưng lừa già yếu, mệt mỏi lê chân như thế này à. Thôi, tôi không cảm được cái gì nữa cả, ngoài sự tội nghiệp. Tôi cảm thấy như đang nhìn một trò hề ngu ngốc, thật khổ sở. Ôi, ông ấy đang trên đường tàn. Sống dài thêm một ngày thì cũng chỉ để lộ ra vẻ khó coi nông cạn thêm một ngày thôi. Bông hoa khi chưa tàn héo thì mới là bông hoa. Phải cắt trong lúc còn tươi đẹp. Người yêu thương ông ấy nhất chính là tôi đây. Dẫu bị người khác ghét đến đâu đi nữa cũng được. Cuối cùng tôi chỉ còn cách là giữ vững cái quyết tâm đau khổ của mình, phải giết ông ấy càng sớm càng tốt. Quần chúng càng lúc càng đông ra, bọn họ chào đón, hoan hô vang vội, quăng quần áo đủ màu xanh đỏ, trắng vàng ra đường chỗ ông ấy đi qua, họ bẻ cành lá cọ lót đường cho ông ấy đi. Kẻ đi trước, người theo sau, từ phải, từ trái quấn quít ông ấy, sau cùng tựa như những làn sóng lớn lúc lắc con lừa, lúc lắc ông ấy. Bọn họ miệng nào cũng hăng say hát “ Cứu thế, con của David, hãy tán dương, kẻ đến với danh của chúa, ở tận trời cao, cứu thế”. Peter, John, Bartholomew, ngoài ra còn có tất cả bọn đệ tử, những thằng ngu tưởng chừng như thấy thiên đàng ở trước mắt, giống như đi theo một đại tướng khải hoàn, bọn nó ôm lấy nhau vui mừng tột đỉnh, cho nhau những cái hôn đầy nước mắt, tỉ dụ như cái thằng cứng đầu Peter, nó đã ôm chầm lấy John, nức nở lớn tiếng khóc ồ ồ vì vui thích. Nhìn tình cảnh đó, người như tôi chăng nữa, khi nhớ lại những ngày khốn khổ đi truyền đạo bất kể khó khăn cùng với bọn đệ tử này, bất giác, mi mắt tôi cũng nóng lên. Và như vậy, ông ấy đi vào trong cung thành, xuống lừa, rồi không biết nghĩ gì mà lại lượm lấy dây thừng quay quanh, đập ngã cả bàn ghế của bọn bán bồ câu, bọn đổi tiền, quất dây thừng vào lưng bò, lưng cừu đang được bày bán, đuổi tất cả ra khỏi thành, xong ông ấy quay mặt sang đám đông lái buôn ở trong thành, lớn tiếng quát tháo. “Tụi bây, tất cả hãy cút khỏi nơi đây, tụi bây không được dùng nhà của cha tao làm nơi buôn bán”. Con người hiền lành như ông ấy sao lại có thể làm được những chuyện thô bạo chẳng ra gì, giống như một kẻ say rượu như thế. Chỉ có thể nghĩ là ông ấy phát khùng mà thôi. Bọn người kế cận tất cả đều sửng sốt, không biết tại sao, bèn hỏi lí do. Ông ấy hổn hển trả lời. “Bọn bây, phá tan cái thành này đi, vì chỉ cần ba ngày tao sẽ cất lại cái thành này cho tụi bây”. Ngay như bọn đệ tử ngu đần cũng phải há hốc miệng mồm, không làm sao tin nổi lời nói liều lĩnh quá độ này. Nhưng tôi, tôi biết. Chẳng qua ông ấy muốn tỏ ra ta là kẻ mạnh, một cách ấu trĩ mà thôi. Đúng là ông ấy muốn ọi người thấy mức độ khí khái của mình rằng vạn sự khó thành cũng sẽ thành với tín ngưỡng của ông ấy. Thế nhưng, sao lại vung roi rượt đuổi bọn lái buôn yếu đuối, ôi, kẻ mạnh sao lại hẹp hòi như thế. Khả năng phản kháng lớn nhất của ông chỉ có chừng ấy hay sao, chỉ là đá đổ ghế ngồi của bọn bán bồ câu hay sao. Tôi muốn cười lên với lòng thương hại, hỏi thử ông ấy. Giờ đây con người này đã trở thành vô dụng. Hết hi vọng. Mất hết tự ái, tự trọng. Vì hình như dạo này ông ấy đã bắt đầu biết rằng mình không thể làm được việc gì hơn nữa với sức lực của mình, nên đã cố ý làm bậy để cho chưởng tế bắt, để được từ giã cõi đời này trước khi bị lòi đuôi ra. Khi nghĩ đến điều đó, tôi đã có thể có quyết tâm rõ ràng bỏ rơi ông ấy. Và tôi cũng đã có thể dễ dàng cười cái ngu của chính mình từ trước đến nay đã một mực yêu thương một thằng con nít hợm hĩnh như thế đó. Đúng lúc đó, trước đám đông quần chúng tụ họp lại trong cung thành, ông ấy đã lớn tiếng tung ra những lời nói hung hăng, vô lễ, ngạo mạn, tàn tệ nhất trước nay chưa từng có. Đúng vậy, thật đáng ghê tởm. Tôi thấy trong cái hình dáng ấy có cái gì có vẻ quỷ quyệt. Như thể là ông ấy muốn bị người ta giết đến độ không chịu đựng được nữa. “Bây đúng là tai ương, bọn học giả ngụy thiện, Pharisees ơi, bọn bây lau sạch bên ngoài ly đĩa, nhưng bên trong lại chứa đầy tham lam và trụy lạc. Bây đúng là tai ương, bọn học giả ngụy thiện, Pharisees ơi, bọn bây giống như mồ được sơn trắng, bên ngoài trông đẹp đẽ, nhưng bên trong đầy đủ loại đồ ô uế và xương người chết. Bọn bây bề ngoài xem như rất đứng đắn, nhưng bên trong chỉ là ngụy thiện và bất chánh. Bọn rắn, con cháu của rắn độc ơi, bọn bây làm sao cũng không thể tránh khỏi hình phạt của Gehenna. Ôi, Jerusalem, Jerusalem, hỡi bọn giết đấng tiên tri, dùng đá ném sứ giả ơi, nhiều lần bọn bây cần phải gom con cái của bọn bây lại như gà mái gom con dưới cánh, thế nhưng bọn bây lại không muốn”. Câu nói ngu ngốc. Một trò hề. Nhái miệng không cũng đủ thấy ghét. Đồ nói chuyện động trời. Ông ấy điên rồi. Ngoài ra lại còn nói nào là sẽ có nạn đói, có động đất, có sao băng từ trời rớt xuống, nào là mặt trăng không phát ra ánh sáng, nào là diều hâu xúm quanh mổ tử thi nằm đầy trên mặt đất, lúc đó người ta sẽ phải nghiến răng than khóc, đúng là để mặc cho cái miệng của mình xổ ra toàn những chuyện lỗ mãng tào lao. Sao lại nói toàn những chuyện không có suy nghĩ cặn kẽ. Tự cao tự đại quá trớn. Đồ ngu. Không biết phận mình. Đồ kiêu căng. Sớm muộn sẽ không tránh khỏi tội vạ. Nhất định sẽ bị treo lên thập tự giá. Nhất định sẽ bị như vậy.