Vào năm thứ hai trăm bốn mươi lăm của cuộc hành trình, Degal, chúa tể của bọn viridee, quyết định du hành về phương Bắc. Những người vợ của hắn ta đã chết hết rồi, nên hắn muốn tìm một người vợ mới. Nhưng lần này, hắn muốn lấy một con người làm vợ. Chúa Tể Degal muốn có một đứa con có thể sống được trong cái lạnh của phương Bắc, có thể đi trên tuyết và sống vui vẻ trong thời tiết lạnh giá. Một người mẹ là con người có thể cho con mình những sức mạnh đó; và đứa con đó sẽ mang những quyền lực thừa hưởng từ cha nó đi đến những lãnh địa mà chưa một viridee nào từng đặt chân đến.
Chúa Tể Degal nghe loáng thoáng rằng Bá Tước Roken của xứ Pomerishi có mười lăm đứa con gái.
Đương nhiên là vị bá tước muốn kén chồng cho tất cả những đứa con của mình. Ngài đã gả đi tám người con, nhưng vẫn còn bảy cô gái chưa lấy chồng. Việc mua thức ăn và quần áo cho bảy cô con gái trở nên thật đắt đỏ, họ rất cầu kỳ và xấu tính hơn những người chị đã lấy chồng của mình. Có một lời đồn rằng vị bá tước đó đang nôn nóng muốn tìm chồng cho những đứa con còn lại càng sớm càng tốt, ông sẵn sàng bỏ qua những khuyết điểm về ngoại hình của chàng-rể-tương-lai, miễn đó là một người đàn ông sở hữu một con ngựa là được.
Bá Tước Roken sống ở một ngọn núi ở phía bắc châu Âu, nơi này, vào mùa hè, bão tuyết cũng có thể xảy ra. Chúa Tể Degal chuẩn bị tinh thần rất kỹ. Hắn sai những tên lính trinh sát chọn ra ba con ngựa phương Bắc khỏe mạnh, cùng với hai tên lính theo hắn trong cuộc hành trình ra khỏi khu rừng. Trong túi của mình, hắn mang đủ tiền vàng để mua áo lông, nón và giày ống để có thể chống chọi với thời tiết lạnh giá ở phương Bắc.
Khi bọn viridee đến được lâu đài của Bá Tước Roken, màu da xanh của chúng đã chuyển thành màu xanh dương nhạt, một tên lính còn bị gãy một ngón tay như rễ cây vì bàn tay bị đông cứng.
Vào trong sảnh lớn, ba tên viridee dần dần chuyển từ màu xanh da trời nhạt về màu xanh lá cây vốn có của chúng. Bá Tước Roken quyết định không để ý đến hình thù kỳ lạ của chúng. Mặc một chiếc áo choàng màu-xanh-rừng-già, Chúa Tể Degal trông thật oai phong. Không có một nếp nhăn nào trên làn da xanh, ẩm ướt của hắn, chỉ có vài chỗ loang lỗ trắng, tóc của hắn ta vẫn còn màu xanh của rêu trong hồ. Bá tước có vẻ hài lòng khi nghe người khách này đang tìm một người vợ. Ngài gọi những đứa con gái của mình ra, Chúa Tể Degal nhìn kỹ từng người một, khi họ bước vào trong sảnh. Ngay khi hắn trông thấy Adeliza, hắn biết đó là người vợ mình đang tìm kiếm.
Adeliza là người con gái đẹp nhất của Bá Tước Roken. Nhưng nàng cũng là người nhẫn tâm nhất. Nàng có mái tóc nâu vàng, đôi mắt màu xanh lá và đôi môi tựa như cây cung của thần Tình Ái. Nhưng mười người đàn ông đã từ chối lấy nàng. Giọng nói của nàng lạnh như đá, ánh nhìn lại lạnh lẽo, những chàng trai luôn bỏ chạy khỏi nàng như những con chuột hoảng sợ. Nhưng Chúa Tể Degal thì không như thế. Hắn nhận thấy một khí chất giống như mình tỏa ra từ nàng.
Về phía Adeliza, nàng cảm thấy cuốn hút bởi cánh tay dài, không xương của Chúa Tể Degal. Nước da xanh ngắt và đôi mắt đỏ ngầu kỳ lạ của hắn cũng trở nên quyến rũ với nàng, và khi nàng nghe về chiếc ngai bằng ngọc lục bảo đen, nàng thật sự nóng lòng muốn được kết hôn với hắn.
Đám cưới được diễn ra vào ngay sáng hôm ấy, và ngày hôm sau, cặp đôi hạnh phúc đưa nhau trở về Châu Phi.
Rừng rậm ở Châu Phi nóng hơn nhiều so với sự tưởng tượng của Adeliza, nhưng nàng không phàn nàn gì về điều đó cả. Nàng hạnh phúc khi sống trong những thứ trang sức vô giá, những chiếc áo choàng lấp lánh và thích thú khi cả ngàn người hầu lúc nào cũng chờ đợi để được nghe lệnh nàng.
Chúa Tể Degal cũng rất hài lòng về người vợ mới của mình, và khi con trai của hắn chào đời, hắn có thể nhận ra ngay từ cái nhìn đầu tiên rằng, đứa bé là tất cả những gì hắn mong ước. Họ đặt tên cho đứa con là Harken, theo tên người ông của Adeliza.
Đứa bé lớn lên thành một cậu thiêu niên thật khỏe mạnh. Nó đẹp trai, nhung cũng thật tàn nhẫn, xảo quyệt và phép thuật của nó cũng thật lợi hại. Ánh nhìn từ đôi mắt màu xanh ô-liu của nó có thể làm người ta đông cứng chỉ trong vài giây. Nó có thể biến thành con rắn, nó có thể tạo ra quái vật và có cả tài năng thiên bẩm trong việc bỏ độc.
Khi Harken mười ba tuổi, chúa tể Degal gửi nó về phương Bắc. “Cha muốn con tìm một thằng bé người Châu Phi, cưỡi trên lưng một con lạc đà biết bay,” chúa tể của bọn viridee nói. “Thằng nhóc đó đang sở hữu một vật vô giá, một vật có thể làm cho nó mạnh lên gấp trăm lần.”
“Con đã rất mạnh rồi,” Harken nói. “Còn con lạc đà thì không thể bay được.”
“Nhưng con này thì có thể,” cha của nó nói. “Con không mạnh bằng thằng bé Châu Phi đó đâu.”
Harken nắm lấy vành tai mình: “Ồ? Vậy sao?”
“Thằng bé đó có tấm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nó đã được nhúng vào sương đọng trên một loài hoa quý hiếm, được ngâm qua nước mắt của một sinh vật đã tuyệt chủng. Nó có thể bảo vệ cho người đang giữ nó khỏi bất cứ cuộc tấn công hay bất cứ vũ khí nào trên thế giới.”
“Nhưng không nó sẽ không chống lại được con đâu,” Harken nhíu lông mày kiêu ngạo.
Cha của nó trò nên mất kiên nhẫn: “Làm sao con biết được?”
Harken nhún vai.
“Tốt hơn hết là con nên đi và tìm ra nó.”
Harken lầm bầm: “Vậy thằng bé đó và con lạc đà bay ở đâu chứ?”
“Thuộc hạ của cha nói là chúng đang đi về hướng một ngọn núi, cánh đây hai đại dương.” Chúa Tể Degal hướng dẫn cho con con trai mình trên tâm bản đồ bằng da lợn rừng. “Và còn một điều nữa,” hắn nói tiếp. “Chúng ta còn tin rằng thằng bé đó còn đang sở hữu một cái lọ hình con chim. Cha không biết trong đó chứa cái gì, nhưng cha nghĩ đó là một thứ có thể giúp chúng ta trường thọ, vì thằng bé ấy không hề già đi trong hai trăm năm qua.”
Trí tò mò của Harken càng trỗi dậy. Dẫn theo bốn tên lính viridee, nó rời khu rừng và tiến về phương Bắc, quyết tìm cho được thằng bé cưỡi con lạc đà biết bay như cha nó mô tả. Harken rất giỏi trong việc tìm kiếm mọi thứ. Nó không nghĩ mình sẽ mất nhiều thời gian để tìm kiếm tâm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng và chiếc lọ hình con chim.
Trong vài tuần liền, Harken tìm ra một nơi rất gần với chỗ Timoken đã đi qua. Nhung họ vẫn còn cách nhau một thung lũng rộng lớn, trong thung lũng ấy có một đám trẻ có nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của Timoken.
Con ngựa mệt lả kéo chiếc xe được phủ kín có mười một đứa trẻ đang ngồi bên trong. Chiếc xe ngựa lắc lư, nghiêng ngả đang trên đường đến một thung lũng ở Pháp, điều khiển chiếc xe ngựa là một người đàn ông mặc chiếc áo thấy tu có mũ trùm đầu màu nâu. Nhưng bản chất của ông ta không giống như bộ quần áo đang mặc, ngược lại, ông ta là một tên côn đồ. Cùng đi với ông ta là năm tên đồng bọn, cũng ăn mặc giống như vậy, đang ở trong chiếc xe ngựa. Chúng có một con ngựa dự phòng được cột dây dắt đi bên cạnh.
Mười một đứa trẻ bị buộc với nhau ở cổ tay. Miệng của chúng đều bị nhét đầy giẻ và mắt cá chân chúng cũng bị cột chặt đến mức da tróc cả ra và bị sưng phồng. Chúng đang bị bắt cóc.
Bốn đứa trẻ người Anh ngồi về một bên xe ngựa, chân chúng bị cột với bảy đứa trẻ người Pháp ngồi đối diện - bốn trai và ba gái.
Phía đuôi xe ngựa, bên cạnh những đứa trẻ người Anh là một cái lồng, trong đó còn một đứa bé gái nữa. Cô bé mặc một chiếc váy dài màu xanh da trời, khoác một chiếc áo choàng không tay màu nâu bằng lông. Mái tóc dài đến tận eo cô của cô được thắt bím và buộc bằng nơ màu xanh. Cô bé ngồi cong chân về một bên, chúng chỉ trói tay cô, còn chân và miệng thì không. Bọn bắt cóc chắc đã nghĩ rằng làn da của cô có giá trị, vì thế chúng không muốn ghi dấu lên đó bằng dây trói hay giẻ rách. Cô bé thật ra là con gái của người chiến binh nổi tiếng nhất ở vương quốc Tây Ban Nha Castile, mặc dù bọn bắt cóc không biết điều đó.
Chiếc xe ngựa đột ngột xốc manh, làm cho những đứa trẻ bên trong ngã nhoài vào nhau. Chúng khó khăn tìm cách ngồi dậy, chờ xem chuyện gì sắp xảy ra. Chúng sẽ được giải thoát hay tiếp tục bị hành hạ?
Ánh trăng soi bóng hằn lên vách xe ngưa, hai người đàn ông xuất hiện ở đuôi xe. Họ leo lên và lần lượt tháo khăn bịt miệng cho những đứa trẻ. Khi họ đi chen ngang qua, họ thô bạo đá và xô dạt chân của những đứa trẻ. Một cô bé người Pháp bắt đầu khóc, cậu bé ngồi cạnh khẽ nói: “Suỵt! Marie!” Những đứa trẻ còn lại đều im lặng. Chúng biết rằng nếu khóc thì chúng sẽ không có bữa tối.
Những miếng bánh mì đen được phát cho chúng.
Ban đầu, việc ăn đối với chúng thật là khó khăn khi tay bị cột chặt vào nhau. Nhưng chúng học được cách cùng dùng tay phải, còn tay trái thì bị kéo lên miệng của đứa khác. Chúng cũng phải cẩn thận khi uống nước để không làm đổ ra sàn, cái bình được chuyền tay từ đứa này sang đứa khác.
Khi đi đến cuối xe, một trong hai tên bắt cóc đi đái mở cửa cái lồng, để một lọ nước vào bên trong. Hắn để thêm một mẩu bánh mì và phô mai cạnh lọ nước.
Hai người đàn ông để mặc bọn trẻ và đi ra ngoài, một lát sau, tiếng lửa tí tách vang lên. Bọn chúng thì thầm trò chuyện với nhau. Một tên nói: “Hai ngày nữa, chúng ta sẽ có thể bán nó đi.” Một giọng nói khác đáp lại: “Mày kêu giá bao nhiêu?” Bọn trẻ không nghe được câu trả lời. Lát sau, mùi thịt nướng đầy cám dỗ bốc lên, bay tràn vào trong chiếc xe ngựa.
Cậu bé người Anh lấy tay sờ vào bụng, liếc mắt qua lại. Cậu bé đó mới mười ba tuổi, nhưng đã cao gần bằng một người lớn. Cha của cậu là một cung thủ, cậu bị bắt cóc khi đang theo cha học hỏi để trở thành người như cha mình. Cậu bé cao lớn, khỏe mạnh và luôn luôn thấy đói bụng.
Một cậu bé khác có mái tóc màu đỏ đổng ngồi bên cạnh cái lổng nói: “Đừng chọc chúng tớ cười, Mabon. Chúng sẽ phạt chúng ta đấy.”
“Mùi thơm của thịt đã là một sự trừng phạt với tớ rồi,” Mabon nói.
Bé Marie bắt đầu cười khúc khích. Henri, cậu bé ngồi bên cạnh, cũng cười đến nghẹn bánh mì, và rồi tất cả cùng rung lên vì cố nén không để tiếng cười phát ra ngoài.
Cậu bé tóc màu đồng liếc nhìn vào cái lồng, tự hỏi không biết cô bé trong đó có đang cười hay không. Cô bé chỉ mới đến ở cùng bọn nó có một ngày, cậu chưa bao giờ nhìn thấy cô bé cười, kể cả khi cậu cố gắng giới thiệu tên mình với cô bé.
Cô bé nhìn cậu, một lần nữa, cậu chỉ tay vào ngực minh: “Edem!”
Cô bé đặt một tay lên ngực mình và nói: “Beri!”
Mọi người cùng nhìn vào cái lồng. Đây là lần đầu tiên cô bé lên tiếng. Không ai biết cô bé là người Anh hay người Pháp.
Đầu tiên là Edern, sau đó đến Henri, cố hỏi xem cô bé đến từ đâu. Cô bé không thể hiểu được điều họ muốn nói.
Henri nhún vai và nói: “Mysterieusei”*
* Tiếng Pháp: Bí ẩn.
Gereint, cậu bé người Anh nhỏ nhất, bắt đầu cất tiếng hát thật kẽ. Cậu bé có một giọng hát thật hay. Cậu hát bằng tiếng Latin, ngôn ngữ mà thầy dạy nhạc dạy cho cậu. Bài hát như một phép thuật. Cô bé trong lồng nở một nụ cười thật đẹp, tựa vào thanh chắn của cái lồng để lắng nghe. Cô bé nói rất nhiều, nhưng đó không phải là tiếng Anh, cũng không phải tiếng Pháp.
“Có lẽ cô ấy là người La Mã,” Mabon nói, khi đó cô bé ngồi xuống, vẫn mỉm cười với Gereint.
“Người La Mã đã chết hết rồi,” cậu bé ngồi cạnh Mabon nói. Tên cậu là Peredur. Với khuôn mặt hẹp và bộ răng dài rất sắc, trông cậu ta như một con sói tóc vàng.
Trong khi cả bọn đang tranh cãi và trò chuyện, Beri lại suy ngẫm xa xôi. Bài hát của Gereint gợi cho cô nhớ đối một thánh đường ở Toledo. Lần cuối cùng cô bước vào thánh đưòng là để tham dự đám cưới của một người họ hàng. Nhưng Beri không bao giờ muốn kết hôn. Không bao giờ. Cô bé muốn khám phá cuộc sống nhiều hơn nữa. Cô thích những cuộc phiêu lưu và sự sôi nổi. Chỉ có cha Beri mới biết cô là một tay kiếm tài năng. Những buổi học của họ đều là bí mật.
“Nếu mình có một thanh kiếm thì...” cô thì thầm một mình bằng ngôn ngữ Castilia.*
* Castilian: tiếng Tây Ban Nha được sử dụng ở tỉnh Castile.
“IM LẶNG!” Một tên bắt cóc xuất hiện. Hắn là tên hung ác nhất trong sáu tên. Khuôn mặt hắn đầy sẹo, còn mũi của hắn thì bị bẹp ra sau nhiều năm đánh nhau.
Mabon, cậu bé ngồi gần tên bắt cóc nhất hỏi: “Thưa ngài, làm ơn cho chúng tôi biết là các ngài đang đưa chúng tôi đi đâu?”
Tên bắt cóc trùng mắt nhìn cậu: “Mày đã hỏi bao nhiêu lần rồi hả? Tao nói rồi. Khi đến nơi mày sẽ biết ngay thôi.”
“Làm ơn hé lộ cho chúng tôi biết đi,” Peredur dũng cảm nói.
Tên bắt cóc cười gian xảo: “Thôi được rồi. Chúng mày sẽ đi về phương Đông, nơi mà những đứa con nít tóc vàng, da trắng như chúng mày sẽ rất đắt giá.”
“Giá cả ư?” Edem nuốt nước bọt lo lắng.
“Nô lệ!” Tên bắt cóc cười lớn hơn. “Tất cả chúng mày sẽ thành nô lệ, tao cho chúng mày biết thêm là hàng dặm quanh đây không có một ngôi nhà nào đâu, vì thế đừng kêu cứu vô ích.”
Tên bắt cóc quay đi, bỏ mặc bọn trẻ chìm ngập trong sự im lặng. Bọn trẻ người Pháp không hiểu tên bắt cóc nói gì, nhưng qua vẻ mặt khiếp sợ của những đứa người Anh, chúng hiểu được rằng sự việc rất tệ.
Chiếc xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh, Edem nói nhỏ với Peredur: “Tớ sẽ chạy trốn. Tớ là đứa chạy nhanh nhất, nên có thể tớ sẽ thoát được. Cậu dùng răng cắn đứt dây cho tớ được không, Perry?”
Peredur nhe răng, khoe hàm răng sắc như răng sói của mình. Nó đưa phần dây nối tay nó và Edern lên, gật đầu, cho dây vào miệng.
“Không phải bây giờ,” Edern thì thầm. “Hãy chờ đến khi chúng ta đi qua một rừng cây nào đó để tớ có thể trốn được. Ngoài kia còn quá trống trải.”
Gereint nghe được cuộc nói chuyện của hai cậu bé, nó nói nhẹ nhàng: “Cậu chạy thật nhanh, Edern. Cậu may mắn có thể thoát được. Nhưng còn chúng tớ thì sao? Cậu sẽ quay lại cứu chúng tớ chứ?”
“Tất nhiên rồi. Tớ sẽ cứu tất cả các cậu.” Edern nhìn những gương mặt buồn bã xung quanh mình. “Tất cả các cậu,” nó nhắc lại. Và rồi, nó nhìn vào cái lồng. Nó nhớ ra rằng bọn bắt cóc đã bàn về cô ấy. “Chúng sẽ bán Beri đi trong vòng hai ngày tới,” nó nói.
Nếu không nhanh lên thì việc cứu cô gái trong lồng cũi sẽ là quá muộn.