Rừng thưa trên Đại Mạc chủ yếu nằm ở rìa đông nơi tiếp giáp với núi rừng Mạc Bắc. Vào đến vùng trung tâm Đại Mạc chỉ còn những trảng cỏ cháy vàng rực mênh mông, do đó đoàn người của Khung Dực không phải đi xa mà chỉ cần thúc ngựa chạy dọc rìa đông Đại Mạc, cách vịnh Lam Thủy tầm nửa ngày đường. Sáng sớm khởi hành, bầy chiến mã phi nước đại đến khi mặt trời lên cao đã thấy thấp thoáng mảng rừng thưa trước mặt. Trong rừng chủ yếu có cây thông, cây lá kim đặc trưng của khí hậu phương bắc, còn lại là cây bụi và cỏ thấp.
"Thống lĩnh! Đám cây trong mảnh rừng thưa đó đóng thành thuyền được không?" Bàn Minh Sơn giục ngựa lên cạnh Khung Dực rồi hỏi.
Khung Dực im lặng không đáp, chỉ phất tay ra hiệu cho cả nhóm người nhìn về phía trước, đoạn cùng tiến thẳng vào khoảnh rừng trước mắt. Càng tiến gần đến nơi, ngựa càng chạy chậm lại. Bất chợt, họ nhìn thấy trong giữa khoảnh rừng kia thấp thoáng bóng người, lại còn có khói trắng bay lên lãng đãng. Mùi thịt nướng, khoai nướng kèm với mùi rượu táo được đun cùng với quế tỏa ra thơm ngào ngạt, hòa cùng tiếng cười nói rộn rã, tiếng ngã giá xôn xao nhộn nhịp.
Đoàn người của Khung Dực ghìm cương đúng lúc nhóm người trong khoảnh rừng thưa ngưng mọi hoạt động mà quay ra nhìn.
Khung Dực hơi nhíu mày quan sát rồi chợt vỡ lẽ. Đây có lẽ là một cuộc trao đổi mua bán giữa những bộ tộc du mục trên Đại Mạc.
Trên Đại Mạc tồn tại nhiều bộ tộc nhỏ chung sống thành từng cụm, nay đây mai đó dựa vào việc nuôi ngựa, dê và săn bắn, hái lượm. Vì là dân du mục nên cuộc sống của họ không ổn định, triều đình Đại Thương cũng khó quản lý hết mà chủ yếu chỉ liên lạc với những bộ tộc du mục lớn, đặc biệt là những bộ tộc biết nuôi ngựa chiến, thuần được ngựa hoang. Còn lại những bộ tộc nhỏ như thế này thì nhiều vô số, đành để họ tự do sinh tồn trên Đại Mạc. Được cái là tính tình họ hào sảng, giản đơn nên trước giờ cũng không gây ra biến cố gì.
Hôm nay trong đoàn tướng sĩ của Khung Dực có Kỷ Phong, Bàn Minh Sơn, Đinh Đại Đồng và Lăng Kỳ Anh cùng một nhóm nhỏ kị binh và cung thủ. Ai cũng vận binh phục, chỉ không vận giáp toàn thân mà chủ yếu mang giáp tay, giáp ngực loại gọn nhẹ phù hợp với việc đi đường. Khung Dực cũng vậy, hắn lại không đeo vương miện trán nên nhìn qua chẳng khác nào một vị tướng sĩ trong Lam Thủy quân.
Khung Dực suy nghĩ chớp nhoáng rồi quay mặt lại lắc đầu ra hiệu cho nhóm tướng sĩ không tiết lộ thân phận của mình.
"Các vị là binh lính của Lam Thủy à? Cho hỏi đến đây có việc chi?" Một nam nhân tầm ngoài bốn mươi tuổi, trông có vẻ là một trong những người trưởng nhóm bước ra hỏi. Tộc người du mục trên Đại Mạc ăn vận khác với người ở những nơi còn lại một chút. Quần áo của họ chủ yếu làm từ da thú chắp nối lại, kết hợp với vải thô đắp chéo thân được trang trí bằng dây tua rua nhiều màu trông khá tươi vui, bắt mắt.
"Chúng ta đi xem xét xung quanh thôi, do cũng mới đến Lam Thủy không lâu." Kỷ Phong nhảy xuống ngựa rồi bước lên một bước, thân thiện đáp lời. "Các vị đang mua bán, trao đổi gì thế?"
Thấy nhóm binh sĩ Lam Thủy không có địch ý, nam nhân Đại Mạc lập tức trở nên vui vẻ hẳn: "Đến đây cùng ngồi ăn đi, cũng trưa rồi. Chúng ta đem rượu táo bí truyền ra đổi lấy thịt, sữa dê và khoai, sắn của các nhóm khác."
Kỷ Phong kín đáo đưa mắt nhìn Khung Dực, nhận được cái gật đầu của hắn mới cười xòa rồi tiến lại nhập hội. Lăng Kỳ Anh nhanh chân ngồi chen vào giữa Kỷ Phong và một cô nương Đại Mạc hai má lúng liếng đồng tiền, còn nhóm Khung Dực, Bàn Minh Sơn và Đinh Đại Đồng thì chỉ lom lom nhìn vào nồi rượu táo đun với quế cùng chiếc đùi dê đang nướng trên than hồng.
Thấy khi không ăn chực của người ta cũng ngại, Khung Dực bèn quay sang ra hiệu cho Bàn Minh Sơn. Hắn lập tức hiểu ý, chạy về phía bầy ngựa của binh sĩ rồi lôi ra nào là lương khô, nào là ngô ngọt cùng một ít bánh trái để ăn nhẹ dọc đường, đoạn mang về góp chung với nhóm người du mục.
Mùa xuân trên Đại Mạc nắng ấm trời trong xanh, chỉ sau vài tuần rượu và hơn nửa cái đùi dê là nhóm người đã hồ hởi xưng huynh gọi đệ rồi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên đời. Phía binh sĩ Lam Thủy dù không ai bảo ai nhưng mọi người cũng đều đã quá hiểu ý nhau, không một lời trao đổi cũng có thể hoàn hảo mà thuận theo không khí đầm ấm này để lấy được càng nhiều thông tin càng tốt.
"Khà khà, dân du mục chúng ta nay đây mai đó, làm gì có chuyện định ra nơi gặp mặt cố định để trao đổi hàng hóa chứ. Nhưng mà chúng ta có quy tắc bất thành văn để tìm ra nhau cả đấy!"
"Ồ, nói ra cho bọn đệ mở rộng tầm mắt với!" Kỳ Anh hứng thú kêu lên.
"Thường trên Đại Mạc sẽ có nơi cỏ cao, có nơi cỏ thấp. Bọn ta hay chọn nơi có những trảng cỏ thấp khô ráo để gặp mặt, trên trảng cỏ phải có một khoảnh rừng thưa. Gặp nhau trong rừng thưa vừa có bóng râm vừa tránh được gió thốc, rất tiện, lại còn ít gây chú ý. Ngày đầu tiên của mỗi tháng, các bộ tộc nào ở gần khoảnh rừng thưa như vậy cứ đến đó dọn dẹp chỗ một chút rồi nhóm lửa lấy khói làm ám hiệu cho những người khác biết mà tìm đến, sau đó gặp nhau trao đổi đến hoàng hôn thì ai về tộc nấy. Dĩ nhiên trước khi đi phải dập lửa cho kỹ, tránh làm cháy cỏ cháy rừng."
"Thế lỡ xung quanh không có ai đến thì sao?"
"Hahaha, may rủi là do ông trời, nhưng việc của ta thì ta vẫn phải làm thôi! Rừng thưa trên Đại Mạc không nhiều nên cơ duyên gặp nhau vẫn có. Dĩ nhiên sẽ có những lúc xung quanh không có tộc nào khác, thế thì hoặc là đành chịu, hoặc là phải đi xa hơn để tìm. Nhưng cũng sẽ có lúc như hôm nay này, gặp được nhiều người, lại còn kết giao được bằng hữu như các huynh đệ đây, không phải sao?"
Tiếng cười rộn rã cứ thế vang lên khắp cả khoảnh rừng. Khung Dực lẳng lặng nhắm rượu, đoạn đưa mắt nhìn quanh dàn tướng sĩ của mình.
Kỷ Phong luôn có thái độ thân thiện cởi mở, Lăng Kỳ Anh thì chẳng khác nào tiểu đệ hoạt náo tinh ranh lúc nào cũng pha trò cho mọi người cười nghiêng ngả, Đinh Đại Đồng thì sắm vai một "lão thúc" thật thà để tạo hảo cảm và giành lấy sự tin tưởng trong khi Bàn Minh Sơn có nhiệm vụ mời rượu nhiệt tình. Vì ai cũng có vai của mình nên Khung Dực khá rỗi rãi, có thể vừa ăn uống, vừa trò chuyện dăm ba câu lại vừa quan sát hết thảy mọi người.
Những người du mục này có vẻ đến từ một tộc nhỏ trên Đại Mạc, khá thật thà và dễ gần. Khung Dực thấy họ không có gì khả nghi nên bắt đầu hướng ánh mắt đến những người còn ở phía sau mải đang mua mua bán bán, đúng lúc này hắn mới để ý đến một nhóm ba người nọ.
Thoạt nhìn qua họ trông như cùng thuộc nhóm người du mục này, nhưng khi Khung Dực nhìn kỹ mới thấy họ có vài điểm khác biệt kín đáo mà không phải ai cũng phát hiện ra. Quần áo họ mặc cùng kiểu dáng với người du mục nhưng lớp vải đắp chéo thân lại là vải mềm, trông như tơ lụa phương nam. Vóc dáng họ thấp hơn một chút, mái tóc giấu kỹ sau chiếc mũ lông thú nhưng có thể thấp thoáng thấy chân tóc màu đen.
Nhóm người đó gồm hai nam một nữ, nãy giờ từ khi nhóm binh lính Lam Thủy nhập hội cùng đoàn người du mục ngồi ăn uống chuyện trò thì họ vẫn chỉ đứng phía xa cố bán cho hết hàng của mình, thế nhưng chốc chốc lại đưa mắt nhìn sang phía này.
Trong ánh mắt họ ánh lên rõ rệt sự e dè dành cho tướng sĩ Đại Thương.
Khung Dực vờ chồm người sang phía Kỷ Phong và Lăng Kỳ Anh lấy một củ khoai nướng, khẽ huých vai vào vai Kỳ Anh rồi đưa mắt ra hiệu nhìn sang nhóm ba người nọ. Kỷ Phong nhìn thấy, nụ cười bên môi còn chưa tắt vẫn quay sang hướng Khung Dực ám chỉ, trong khi Lăng Kỳ Anh thì chưa vội nhìn, chậm rãi gặm sạch miếng thịt dê xong còn nâng chén rượu uống cạn rồi mới khẽ quay đầu sang.
Ba người nhanh chóng trao đổi ánh mắt một chút, không ai bảo ai mà tất cả đều cùng một ý nghĩ.
Ba người đó là người phương nam.
Lăng Kỳ Anh trưng ra vẻ mặt ham của lạ rồi quay sang hỏi nam nhân trưởng tộc du mục ban nãy, người này tên Kháp Tư:
"Kháp đại ca, phía sau dường như có một mỹ nhân thì phải? Vị cô nương đó có phải người trong tộc của huynh không?"
Kháp Tư quay đầu nhìn một chút rồi xoay người lại, hơi hạ giọng mà nói: "Không phải đâu. Dân buôn lậu từ Mạc Bắc đấy."
Khung Dực nghe xong khẽ chấn động trong lòng. Mạc Bắc?
"Là Mạc Bắc phía chúng ta hay phía ải Bạch Vân của Kinh Lạc? Huynh phải nói rõ để đệ còn biết đường mà đi tìm mỹ nhân chứ!" Kỳ Anh vờ hồn nhiên hỏi.
"Trên Đại Mạc này nếu đã gặp nhau trao đổi hàng hóa thì chúng ta không hỏi xuất xứ. Đó cũng là một quy luật bất thành văn. Tuy nhiên..."
Kháp Tư khẽ hắng giọng rồi chồm người lại phía trước một chút mà thì thầm: "Chúng ta nghĩ rằng đó là nhóm thổ phỉ ẩn sâu trong núi rừng Mạc Bắc. Mạc Bắc phủ lên cả Đại Thương và Kinh Lạc, chỉ có rừng mận làm biên giới tự nhiên chia đôi hai vùng. Nhóm thổ phỉ này hành tung bí ẩn, lâu lâu mới xuất hiện trao đổi hàng. Họ chuyên dùng thảo dược, thảo mộc trên núi để đổi lấy thịt dê, sữa dê của bọn ta. Chúng ta cũng không biết căn cứ thật sự của họ nằm phía bên Đại Thương hay phía bên Kinh Lạc nữa."
Chiều hôm đó khi mặt trời chếch hơn về phía tây, nhóm binh lính Lam Thủy bèn đứng dậy cáo từ. Trước khi ra về, Khung Dực và Kỷ Phong định bước lại xem những món thảo dược mà nhóm ba người phương nam kia đang mang ra đổi, thế nhưng dường như họ đã có sự phòng bị trước, nhanh chóng dọn hàng rồi lên ngựa rút lui.
"Nhị vương tử, nhóm người đó có cần cho người điều tra không?" Lúc thắng yên ngựa, Kỷ Phong đến gần Khung Dực rồi hỏi.
Khung Dực nhìn quanh rồi ghé vào tai Kỷ Phong thì thầm: "Người khác không được, phải là đích thân ngươi điều tra một chuyến."
Hắn nhìn vào mắt Kỷ Phong, hạ giọng nói phần cốt lõi: "Tuyến đường đi của nhóm buôn lậu này ngươi có thể dùng."
Kỷ Phong hiểu ra, chậm rãi gật đầu: "Đưa Hoàng tử Ngọc Huyên qua biên giới. Nếu dân buôn lậu đã đi được bao lâu nay thì chắc chắn phải có một con đường cực kỳ an toàn, kín đáo."
Khung Dực gật đầu. Bởi vậy khi nghe đến dân buôn lậu đi từ Mạc Bắc, phản ứng đầu tiên của hắn chính là kinh hỉ. Cái hạn hai năm đang ngày càng gần, kế hoạch nam tiến đang được đại ca hắn lĩnh mệnh đốc thúc nên Khung Dực biết rõ việc đưa Ngọc Huyên trốn về Kinh Lạc là chuyện sớm muộn. Từ đó đến nay hắn vẫn luôn canh cánh việc bảo đảm an toàn cho Kỷ Phong và Ngọc Huyên, mặc dù Kỷ Phong làm việc thì Khung Dực vô cùng an tâm, thế nhưng hai năm sau có thể sẽ có nguy cơ trùng trùng bủa vây họ.
Còn chính bản thân hắn... chính bản thân hắn lúc đó e cũng là thân bất do kỷ.
Lát sau, đoàn người ngựa phi nước đại ra khỏi khoảnh rừng thưa, nhắm hướng vịnh Lam Thủy mà đi.
Lăng Kỳ Anh phóng ngựa lên song song với Kỷ Phong rồi gọi với sang: "Kỷ đại ca chờ ta với!"
Kỷ Phong làm bộ ngạc nhiên nhìn hắn: "Ngươi làm gì ở đây vậy? Chẳng phải ngươi nên đi về phía nam sao?"
Lăng Kỳ Anh ngẩn người: "Hả? Sao ta lại phải đi về phía nam?"
Kỷ Phong cười cười: "Thì đi tìm mỹ nhân buôn lậu của ngươi đó! Người ta từ biên giới Mạc Bắc mà đến kia mà, chẳng phải sao?"
Nói rồi Kỷ Phong giục ngựa vọt lên, mặc kệ Lăng Kỳ Anh đang đực mặt ra. Một chốc sau, Kỷ Phong chợt điếng người nghe Lăng Kỳ Anh từ phía sau rống lên sung sướng:
"Kỷ đại ca, huynh đang ghen saoooooooo?"
Những tướng sĩ xung quanh đều quay lại nhìn Kỷ Phong cùng Lăng Kỳ Anh, bao gồm cả Thống lĩnh Nhạn Quân, khiến Kỷ Phong cuống cuồng đến toát cả mồ hôi.
"Ngươi... ngậm miệng lại cho ta!" Kỷ Phong quay lại gắt lên.
"Hahahaha, Kỷ đại ca ghen rồiiiiiiiiiiiiiiii!" Kỳ Anh vẫn réo ầm ĩ, ánh mắt thiếu niên sáng bừng lên trong nắng chiều.
Sau lần gặp được nhóm người du mục đó, khi quay về Khung Dực cùng các tướng lĩnh phải bàn lại việc đốn cây lấy gỗ và trồng rừng. Một phần vì không muốn ảnh hưởng đến nơi họp mặt trao đổi hàng của người du mục, một phần Khung Dực cũng có ý định tìm hiểu thêm về các bộ tộc nhỏ trên Đại Mạc mà trước giờ triều đình Đại Thương không ngó ngàng, Nhị vương tử bèn hạ lệnh đi tìm những khoảnh rừng thưa khác trên Đại Mạc, đặc biệt là ở những vùng cỏ cao, nơi mà ít khả năng nhóm du mục sẽ chọn làm địa điểm họp phiên. Mặt khác, quân Lam Thủy cũng phải chấp nhận trong thời gian đầu thử nghiệm việc đóng thuyền sẽ phải tạm lấy gỗ từ núi rừng Mạc Bắc.
Khi ngồi ăn uống chuyện trò cùng nhóm người của Kháp Tư, phía Khung Dực cũng đã thu thập được kha khá thông tin về việc trồng rừng. Những tộc người du mục chung sống trên Đại Mạc đều có tín ngưỡng và tôn sùng sâu sắc dành cho thiên nhiên, do đó họ rất chú trọng đến việc bảo vệ và giữ gìn mảnh đất nơi họ đang sinh sống. Dù cuộc sống nay đây mai đó, chỉ cần chân còn đứng trên cánh đồng cỏ cháy vàng rực của Đại Mạc, họ đều cực kỳ nghiêm ngặt tuân theo một quy tắc đã có từ bao đời. Quy tắc này gọi là Tam Bất Khả, ba điều tuyệt đối không thể làm trên Đại Mạc.
Thứ nhất, không đốt cỏ đốt rừng. Thứ hai, không giết thú đang mang chửa và con non. Thứ ba, không làm ô uế nguồn nước.
Nếu ai vi phạm bất kỳ điều gì trong ba nguyên tắc này sẽ bị cả tộc trừng phạt, mất đi danh dự và sự tôn trọng của tất cả những người cùng tộc dành cho mình, thậm chí còn có thể bị trục xuất khỏi tộc.
"Nhưng như vậy thì đồ dùng hàng ngày và vũ khí thì thế nào? Chẳng phải các huynh cũng phải đốn cây lấy gỗ rồi làm ra hay sao?" Khi ấy Kỷ Phong đã thắc mắc mà hỏi Kháp Tư như thế.
Lúc đó Kháp Tư nháy mắt cười rồi đáp:
"Dĩ nhiên chúng ta cũng phải đốn cây, nhưng chỉ đốn những cây trưởng thành, tuyệt đối không đốn hạ cây non đang lớn. Ngoài ra, mùa rừng thông ra quả và khi quả chín thì đều chú ý vùi quả xuống đất để tạo điều kiện cho lứa thông mới nảy mầm. Tuy nhiên quan trọng nhất chính là tay nghề đóng gỗ của chúng ta, qua bao nhiêu đời tôi luyện thì đã cực kỳ thành thạo, haha. Cùng một súc gỗ, nếu người nơi khác đóng ra cái rìu, cái ghế hao hụt ba phần thì chúng ta đóng ra chỉ hao hụt một phần. Trước giờ người Vương Đô và người các nơi khác chỉ biết chúng ta giỏi nuôi ngựa thuần ngựa, lại không biết những bộ tộc du mục nhỏ trên Đại Mạc như chúng ta lại có tay nghề làm mộc khéo như thế. Việc này ngay cả triều đình cũng chưa chắc biết đâu, khà khà!"
"Các huynh cố ý giấu triều đình à?" Khung Dực thận trọng hỏi, vẻ mặt vẫn hòa nhã tươi cười.
"Hầy, không phải là giấu gì cả. Chẳng qua bọn ta cũng chỉ làm cho người trong tộc là chủ yếu, ít khi mang ra đổi với ai nên người ngoài không biết là dễ hiểu thôi."
Khi mùa xuân đi về phía cuối cũng là lúc những chuyến gỗ đầu tiên từ mạn biên giới được chuyển về Lam Thủy. Dàn tướng sĩ trước giờ chỉ cưỡi ngựa bắn cung luyện kiếm, tuần phòng bảo vệ lãnh thổ biên cương thì nay lại phải đối mặt với một thử thách mới, đó là bắt tay vào đóng những chiếc thuyền đầu tiên cho Đại Thương. Với một dân tộc lớn lên trên thảo nguyên, trên lưng ngựa mà nói thì đây quả là việc khó như hái sao trên trời.
Hơn ai hết, Khung Dực hiểu rõ điều đó. Mặc dù tài liệu trong sách vở lấy từ Thư Các của Trích Nguyệt đều rất đầy đủ rõ ràng, việc hiện thực hóa những hình vẽ trên trang giấy lại đòi hỏi kỹ năng đóng thuyền thực thụ chứ không đơn giản là mô phỏng. Ban đầu, Khung Dực hạ lệnh triệu tập toàn bộ thợ mộc giỏi của thị trấn Lam Thủy và dải Chinh Sa, tuyển ra được hơn ba mươi người. Nhiệm vụ đầu tiên của họ chỉ là đóng ra một chiếc thuyền đơn nhỏ gọn, nổi được trên mặt nước. Sau nhiều ngày đêm làm thử rồi lại hỏng rồi lại thử, một buổi sáng sớm cuối xuân nọ, chiếc thuyền gỗ đầu tiên được khiêng ra bờ biển, nhẹ nhàng đặt xuống dòng nước xanh ngắt êm đềm.
Trên bờ lúc này có Khung Dực cùng dàn tướng soái, tất cả đều đang hồi hộp nhìn chiếc thuyền con con đang nổi lềnh bềnh trên mặt biển.
Mọi người lẳng lặng đưa mắt nhìn nhau: ai leo lên thử đây?
Những nam nhân lớn xác này ấy vậy mà đều có một điểm chung cố hữu: sự e dè biển cả. Chỉ trừ một số ít binh sĩ tại Lam Thủy là biết bơi, phần đông những người còn lại đều chưa từng nhảy xuống biển, nói chi đến việc leo lên một chiếc thuyền thử nghiệm rồi đi một vòng ngoài vịnh. Người dân Đại Thương tin rằng nơi mà vó ngựa không thể chạy, nước mà ngựa không thể uống là những nơi không lành, trước giờ họ đều không bén mảng.
Soạt. Khung Dực lẳng lặng cởi áo ngoài, cởi giáp tay, trên người chỉ còn một chiếc áo trong đơn giản màu đen phô ra cơ thể cao to rắn chắc, sau đó xuống nước rồi bắt đầu đẩy thuyền ra xa.
"Thống lĩnh! Ngài đích thân thử thuyền ư? Nguy hiểm lắm, để thuộc hạ làm cho!" Kỷ Phong sốt ruột kêu lên, dàn tướng soái phía sau như Đinh Đại Đồng, Bàn Minh Sơn và Lý Tao Niên cũng nhao nhao ngăn lại.
Khung Dực không mảy may nao núng, tiếp tục đẩy thuyền ra đến khi mực nước cao đến lưng chừng hông.
"Đây là ý của ta, trách nhiệm này cũng là của ta, theo lý ta phải làm."
Kỷ Phong thấy Khung Dực đã sắp leo lên thuyền bèn định nhảy theo xuống nước, bất chợt một cánh tay thiếu niên rắn rỏi ôm ngang eo hắn giữ lại.
Lăng Kỳ Anh mặt không đổi sắc, chỉ có khóe môi treo một nụ cười tinh nghịch như mọi ngày mà nhìn Kỷ Phong: "Ta biết bơi, để ta đi cho."
Lăng Kỳ Anh là một trong số ít những thiếu niên lớn lên tại dải Chinh Sa mà biết bơi, có hắn đi cùng Khung Dực quả nhiên là hợp lý. Tuy nhiên Kỷ Phong vẫn nóng ruột mà nói với theo một câu: "Cẩn thận đấy, đừng đi xa quá!"
Lăng Kỳ Anh quay lại nháy mắt, miệng dùng khẩu hình thì thầm:
"Cục cưng, đừng lo lắng."
Thuyền này nhỏ, vốn cũng chỉ chở được hai nam nhân trưởng thành. Khung Dực và Lăng Kỳ Anh ngồi lên đã thấy thuyền tròng trành trên sóng nước. Nhị vương tử trong lòng rất run, không ai biết hắn có nỗi sợ sâu kín dành cho biển cả, thế nên ngoài mặt vẫn phải tỏ ra cực kỳ bình tĩnh mà hạ lệnh cho Lăng Kỳ Anh khua mái chèo, bắt đầu tiến ra xa dần.
Lúc này mặt trời đã tỏa sáng rạng rỡ đằng đông. Buổi sớm cuối xuân trời có gió nhẹ, chẳng mấy chốc thuyền nhỏ đã được gió đẩy ra xa bờ. Càng ra khỏi vịnh nhỏ, màu nước biển càng thẫm lại. Khung Dực vì tự tôn của Thống lĩnh Nhạn Quân lẫn tự tôn hoàng tộc Đại Thương, từ đầu chí cuối đều cắn chặt răng ngoảnh mặt nhìn về phía trước, để cho Lăng Kỳ Anh chậm rãi khua mái chèo phía sau. Hắn gần như gồng mình mà ngồi cứng ngắc ở mũi thuyền, mỗi lần có cơn gió mạnh thổi qua khiến thuyền chao đảo là tim hắn lại muốn vọt ra ngoài.
Bất chợt, Lăng Kỳ Anh kêu khẽ: "Thống lĩnh, ngài nhìn kìa."
Khung Dực hít vào một hơi rồi mới từ từ quay đầu lại, nhìn theo hướng mà Kỳ Anh đang chỉ. Thuyền đã đi ra khỏi vịnh, bóng dáng những người trên bờ đã khuất hẳn. Xa xa trong nắng sớm, hắn thấy được mỏm đá nhô ra biển ở cuối vịnh mà hôm trước hắn cùng Ngọc Huyên leo lên. Trên mỏm đá, một thân ảnh lam ly thanh mảnh đang lặng lẽ đứng nhìn về phía chiếc thuyền con. Sáng nay hắn dậy sớm, khi thức giấc người kia vẫn còn đang say ngủ. Khung Dực không đành lòng đánh thức nên chỉ khẽ dịch ra rồi leo xuống giường, trước khi đi còn không quên hôn lên trán y một cái. Những ngày Khung Dực bận việc quân cơ mật, Ngọc Huyên hết sức hiểu chuyện mà không hỏi han gì, cũng không đi theo.
Thế nhưng việc hôm nay hắn xuống nước thử thuyền, không hiểu sao y lại biết. Có lẽ y đã nhìn thấy dàn tướng soái đứng chờ trên bãi biển, lại e ngại bọn họ nên mới một mình trèo lên mỏm đá này mà nhìn ra.
Sáng nay Ngọc Huyên vấn tóc đội khăn nên Khung Dực không được nhìn thấy mái tóc dài của y bay trong gió, thế nhưng từ khoảng cách trăm thước hắn vẫn cơ hồ nghe thấy ba chữ người kia đã thì thầm qua làn nước lạnh hôm nào.
Có-em-đây.
Cơ thể đang gồng cứng của Khung Dực chợt thả lỏng. Hắn quên cả căng thẳng nãy giờ, chầm chậm đứng lên rồi vẫy tay với Ngọc Huyên. Không biết từ khoảng cách xa như vậy, y có nhìn thấy hắn hay không?
Một lát sau, Khung Dực nhìn thấy ống tay áo màu lam của Ngọc Huyên giơ cao rồi vẫy lại. Bờ môi Nhị vương tử lập tức cong lên, trái tim cũng đập rộn ràng.
Lăng Kỳ Anh chợt lên tiếng:
"Thống lĩnh ngài biết không, nghe nói dân đi biển cần nhất là sao trời dẫn lối chỉ đường, nhưng khi quay về lại cần nhất là hải đăng. Nhìn vào đó mới biết nơi đâu là nhà."
Nơi đâu là nhà ư?
Nhị vương tử bâng khuâng, chợt nhớ đến Tam Bất Khả của dân du mục trên Đại Mạc. Hắn cũng đã có Tam Bất Khả cho riêng mình rồi.
Hắn không thể tổn thương y.
Hắn không thể quên y.
Hắn không thể ngừng yêu y.
Thuyền đi một vòng quanh vịnh thì nắng bắt đầu lên cao, Lăng Kỳ Anh cũng đã mướt mồ hôi, hơi thở bắt đầu nặng nhọc. Thấy đã đủ, Khung Dực ra lệnh quay về. Khi chiếc thuyền con từ từ tiến vào bãi biển, đám người trên bờ đồng loạt hú hét reo lên vui mừng:
"Thành công rồi! Hahaha!"
"Thống lĩnh muôn năm! Đại Thương muôn năm! Thành công rồi!"
Đứng trước mũi thuyền, Khung Dực cũng không giấu nổi niềm vui, gương mặt hiện rõ vẻ đắc ý. Khi còn cách bờ chừng hơn ba mươi thước, Lăng Kỳ Anh bất chợt hốt hoảng kêu lên: "Nước vào thuyền rồi!"
Khung Dực giật mình quay lại, chỉ kịp nhìn thấy một khe nứt to giữa lòng thuyền. Chỉ một tích tắc sau, chiếc thuyền vỡ ra làm hai nửa, Thống lĩnh Nhạn Quân phút trước còn đứng oai phong thì phút sau đã lọt thỏm xuống, chìm trong nước.
Dàn tướng soái đang đứng trên bờ lập tức biến sắc, thất thanh gào gọi Thống lĩnh. Lăng Kỳ Anh cũng ngay tức khắc lao xuống nước.
Vài giây đầu tiên chìm sâu trong nước biển, Khung Dực cực kỳ hoảng hốt. Hắn cố nín thở rồi tập trung nhớ lại cảm giác khi trầm mình trong nước được Ngọc Huyên dịu dàng hôn, được thấy gương mặt đầy yêu thương của người kia, phút chốc lòng đã bắt đầu dịu lại. Khung Dực quơ tay đạp chân một lúc thì được Kỳ Anh túm lấy cổ áo mà kéo lên, chẳng mấy chốc cả người đã trồi lên khỏi mặt nước. Vì cách bờ không xa, hơn nữa trong vịnh nước sâu không có sóng lớn nên lát sau Lăng Kỳ Anh đã lôi được Khung Dực vào bờ.
Mọi người lập tức ùa xuống đỡ lấy Khung Dực và Lăng Kỳ Anh lúc này đang thở hồng hộc, tay chân rã rời, cả người ướt sũng. Kỷ Phong định kéo tay Khung Dực khoác lên vai mình để dìu vào thì Khung Dực đã phất tay, Kỳ Anh thì lập tức biết ý mà nhào tới thế vào.
"Kỷ đại ca, ta hết sức rồi..."
Khung Dực thật ra không mệt vì hắn đâu phải chèo thuyền, cũng không phải xuống nước cứu người, trái lại Lăng Kỳ Anh thì quả thật từ nãy đến giờ tốn không ít sức.
Vừa lội vào bờ, Khung Dực vừa đưa tay vuốt nước trên mặt rồi quay sang bảo Kỷ Phong, Đinh Đại Đồng:
"Phải tìm thợ mộc tay nghề cao hơn nữa."
"Vâng, Thống lĩnh! Thuộc hạ sẽ cho người về Vương Đô tìm luôn." Đinh Đại Đồng gật đầu nói.
Tuy vậy, lòng Khung Dực lại đang nghĩ đến một cách khác. Hắn đưa mắt nhìn Kỷ Phong, bắt được ánh nhìn của hắn, Kỷ Phong cũng gật đầu.
Những thợ mộc của dân du mục trên Đại Mạc.
"Anh Khung Dực!"
Khung Dực đưa mắt nhìn lên, gương mặt lập tức cười tươi rạng rỡ. Ngọc Huyên trán hơi mướt mồ hôi, vừa sốt ruột vừa phải giữ lễ nghi mà sải những bước dài đến bên hắn.
"Ta không sao, đừng lo." Hắn mỉm cười nhìn y trấn an, giữa ba quân tướng sĩ phải giữ khoảng cách một chút, không thì hắn cũng bắt chước tên tiểu tử Kỳ Anh mà tha hồ nhõng nhẽo.
Ngọc Huyên nhìn hắn thấy không sao mới thở phào ra nhẹ nhõm. Đúng lúc này, phía sau chợt dậy lên những tiếng binh sĩ hô vang:
"Tham kiến Đại vương tử! Cung nghênh Đại vương tử!"
- ------------------------------------------
(Đại vương tử đến rồi! Bão táp bắt đầu đổ bộ từ chương sau!)