Trình Cảnh Minh bị dẫn đi đến đồn cảnh sát để thẩm vấn, đến tối vẫn chưa quay lại.
Xuân Hòa cảm thấy lo lắng khó hiểu, tan học cô liên lạc với Diêm Đông, lúc trao thư đã để lại số điện thoại cho nhau, không ngờ giờ lại hữu dụng.
Diêm Đông nói: “Trong lá thư em đưa, Lục Tri Hạ nhiều lần nhắc đến Trình Cảnh Minh, và khi đặt may chiếc áo dài, Trình Cảnh Minh cùng Lục Tri Hạ đến cửa hàng thợ may, chúng tôi yêu cầu cậu ta giao nộp chiếc áo dài đó, nhưng cậu ta từ chối.”
“Vậy thì sao?” Xuân Hòa hơi không hiểu.
Diêm Đông im lặng một lúc: “Chúng tôi nghi ngờ cậu ta che giấu chuyện quan trọng, trước khi cậu ta giải thích rõ ràng, sẽ không thả cậu ta về.”
“Không phải đâu.” Xuân Hòa giải thích, “Mặc dù Tri Hạ có nhắc đến Trình Cảnh Minh, nhưng ngày đó cùng đi với Tri Hạ không phải Trình Cảnh Minh, mà là người khác, điều này bà em có thể làm chứng. Chiếc áo dài đó chỉ là áo dài bình thường, toàn bộ quá trình may Tri Hạ cũng chẳng chạm vào, em không hiểu sao anh lại cần một chiếc áo dài cũ kỹ đến thế.”
Diêm Đông không trả lời, mà chuyển hướng hỏi cô: “Em còn nhớ nguyên nhân cái chết của ba ruột mình không?”
Xuân Hòa chợt sững sờ, thở dốc: “Không phải tai nạn sao?”
“Là tai nạn, cũng không hẳn, ngày hôm đó ở phố Truyện cổ tích, ba em dẫn một nhóm cảnh sát hình sự và lực lượng đặc nhiệm đang ở đấy, trên danh nghĩa là làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, nhưng thực tế là điều tra Ngân hàng Thủy Tinh, ngày hôm đó Ngân hàng Thủy Tinh có triển lãm đồ cổ Minh Thanh, chúng tôi nhận được tin báo, bên trong có chứa một lượng lớn ma túy, tội phạm âm mưu lợi dụng hình thức đấu giá, lúc lưu lượng khách cao điểm, phân tán để vận chuyển ma túy ra ngoài.” Diêm Đông nhớ lại lúc đó, anh ta mới vào làm cảnh sát, chưa từng thấy việc lớn, lần đó đụng độ quá gay go, số người chết và bị thương quá lớn khiến mơ hồ tưởng như đang trong thời chiến, súng đạn đầy trời, cùng với máu và nước mắt cùng tiếng kêu thảm thiết của dân thường.
“Chúng tôi bố trí một lực lượng áp phe rất lớn bao vây Ngân hàng Thủy Tinh, âm mưu dùng phương thức theo dõi để tìm ra ổ ma túy rồi tiêu diệt, nhưng sau đó không hiểu tại sao lại có một nhóm cầm súng tấn công Ngân hàng Thủy Tinh, ba em phải dẫn người chống trả, về sau không kiểm soát được tình hình, cảnh sát mật danh cũng lộ diện hết, lô ma túy vẫn được vận chuyển thành công.” Điều khiến kinh ngạc hơn là: “Tầng hầm Ngân hàng Thủy Tinh là căn cứ chế biến ma túy, ngân hàng bề thế trên đất chỉ là để làm vỏ bọc che đậy, chúng tôi tịch thu được cả một lô máy móc và nguyên liệu, nhưng không bắt được tên nào.”
Xuân Hòa ngây người tại chỗ, cô không hề hay biết những điều này.
“Ba của em truy tìm manh mối đó rất lâu, đến chết cũng không bắt được tên trùm, thậm chí còn mất đi một điệp viên ưu tú, đó chính là người tiết lộ có vấn đề ở Ngân hàng Thủy Tinh, vì vụ việc đó mà lộ thân phận, cuối cùng không còn toàn thây.” Giọng Diêm Đông ngày càng trầm xuống, “Điệp viên đó mới hơn ba mươi tuổi, chuyển đến Lộc Cảng không lâu, do là người xa lạ nên được cài đi, lúc anh ta chết, con trai anh vừa tròn mười ba tuổi.”
Xuân Hòa nghẹn họng, nhà tan nát người chết, không ai có thể hiểu rõ hơn cô.
“Vụ cướp 712 làm thiệt mạng mấy cảnh sát, thậm chí dư luận cũng phẫn nộ theo, truyền thông đăng tin rầm rộ, người dân phẫn nộ chỉ trích cảnh sát Lộc Cảng thiếu trách nhiệm, một bên chúng tôi đau đớn vì đồng đội hy sinh, một bên chịu sự mắng chửi của quần chúng, thù hận muốn xé xác tên buôn ma túy, nhưng chúng tôi không manh mối gì.” Trong giọng Diêm Đông chứa đựng nỗi đau khó tả: “Đối với những người sống sót chúng tôi, việc này mãi là một mảnh gai cắm trong tim, một ngày không phá án, nỗi đau vẫn còn đó. Cho nên bất kỳ chi tiết nhỏ nào cũng không muốn bỏ qua, em có thể hiểu không?”
“Vậy anh từ thành phố xuống là vì vụ án đó sao?” Xuân Hòa dường như đã hiểu được gì đó, “Là phát hiện ra manh mối? Có liên quan tới Tri Hạ?”
“Phải, nhưng nói chi tiết cụ thể với em cũng không có ý nghĩa gì. Em hãy yên tâm học hành, không cần quan tâm chuyện khác.” Diêm Đông dặn dò cô, “Hãy chăm sóc tốt cho bà ngoại của em, lúc bố em qua đời, người đau đớn nhất là bà ấy. Giờ Tri Hạ lại...” Câu nói của anh ta dừng lại, không còn đoạn sau.
Xuân Hòa có rất nhiều câu muốn hỏi, cũng có rất nhiều điều muốn nói, nhưng tất cả ý nghĩ trong đầu chỉ quay một vòng, rồi cuối cùng cô chỉ có thể “ừ” một tiếng nặng nề.
Diêm Đông nói: “Ba em là một cảnh sát tuyệt vời, để điều tra vụ án đó, trước khi chết ông thậm chí cả đêm không hề nhắm mắt, anh nghĩ điều ông hối tiếc nhất trong đời là em và Tri Hạ, hy vọng em có thể tha thứ cho ông, cũng bảo vệ tốt bản thân. Đừng dính vào việc này nữa.”
Ngày hôm đó trường THPT Chiêu Dương bất thường náo nhiệt, bữa tối các học sinh tranh luận sôi nổi đến mức có thể lật tung tòa nhà học tập, giờ sử dụng mạng mỗi ngày bị giới hạn một tiếng của phòng máy tính hôm nay càng chật kín người, học sinh nội trú sống cô lập với thế giới bên ngoài, chỉ có một tiếng tiếp xúc với thế giới bên ngoài, mọi người đều rất trân trọng, không lãng phí một giây.
Nhưng hôm nay tất cả mọi người đều tập trung đem mắt nhìn vào trang tin tức.
Dưới sự tưởng tượng bay bổng của các phóng viên, trường THPT Chiêu Dương leo thang nhanh chóng thành hot, kênh tin tức của đài truyền hình thậm chí làm chuyên đề đặc biệt về nó, công chúng liên tục kêu gọi, yêu cầu các cơ quan liên quan làm rõ vấn đề này, và dường như mọi người không quan tâm đến cái chết của Triệu Ngọc Hàm, tất cả quan tâm đến việc giáo viên bắt tay cơ sở giải trí để cùng nhau xâm hại học sinh nữ, nếu sự việc này là thật, đó sẽ là một vụ việc xã hội cực kì tồi tệ.
Trong mắt mọi người, ngôi trường là mảnh đất trong sạch, giáo viên thì càng thiêng liêng như Phật, nếu ngay cả những người này cũng trở nên tồi tệ thì còn tin tưởng vào điều gì nữa.
Sự phát triển nhanh chóng của truyền thông mới, khiến thông tin đến tay mọi người càng nhanh hơn, những tin xấu cũng bay nhanh không kém.
Đôi khi người ta cảm thấy thế giới ngày càng tối tăm bẩn thỉu, thực ra thế giới vẫn luôn như vậy, những nơi ánh mặt trời không chiếu tới, bóng tối âm ỉ phát triển.
Chỉ là việc phơi bày ngày càng nhiều, giống như những điều tồi tệ dường như càng tăng lên vậy.
Và việc phơi bày như thế, đôi khi cũng khó nói là tốt hay xấu.
Học sinh ríu rít bàn tán, tất cả giáo viên bị chúng lật qua lật lại phân tích, thỉnh thoảng nhớ ra giáo viên nào có hành vi mơ hồ với nữ sinh, mọi người lại ồ lên kinh ngạc, sau đó càng nhiều người đồng tình, mang ra mỗi câu nói, từng động tác, thậm chí mỗi biểu cảm của giáo viên để phân tích.
Một khắc, lòng người hoảng loạn.
-
“Cô có nghe chuyện của trường THPT Chiêu Dương không?!” Ngay cả những người bán rau trên phố cũng bàn tán sôi nổi.
Người phụ nữ trung niên cúi xuống chọn cà rốt giả vờ ôm ngực kêu lên: “Con gái tôi còn đang học ở đấy này, tôi sợ muốn chết luôn rồi!”
“Đúng là thế! Bây giờ các giáo viên đều độc ác cả rồi!”
...
Xuân Hòa đi dọc theo con hẻm, lủi thủi qua các quầy hàng bên đường bán rau củ và trái cây, nghe thấy cuộc tranh luận hoang đường không tưởng đó, cô cảm thấy sự hồi hộp trong lòng như thủy triều, một đợt một đợt đập vào bờ.
Cô nhớ đến ba, đó là ký ức rất xa xôi, cô có trí nhớ tốt từ sớm, những chuyện năm sáu tuổi vẫn nhớ rõ ràng, nhưng giờ đã mười một năm trôi qua, ngay cả những ký ức rõ nét nhất cũng trở nên mờ nhạt.
Sau khi được nhận nuôi, theo ba mẹ nuôi chuyển chỗ ở nhiều nơi, mấy lần dọn nhà khiến bức ảnh duy nhất của ba ruột bị thất lạc, đến bây giờ, cô thậm chí dần quên luôn gương mặt của ba ruột mình, rõ ràng cảm thấy bản thân phải nhớ rõ, nhưng vẫn không thể nhớ ra.
Cô chỉ mơ hồ nhớ cảm giác ông ấy để lại cho cô, người rất cao lớn, cường tráng, ít nói, nội tâm sâu sắc, ánh mắt sắc bén, mặc đồng phục cảnh sát rất đẹp trai.
Cô chỉ còn nhớ lại những cảm giác rời rạc đó thôi.
Về những vụ án ông điều tra, bao nhiêu chuyện nguy hiểm kinh hoàng đã trải qua, ông sẽ không kể khi ở nhà, trở về nhà, cởi bỏ bộ đồng phục, ông chỉ là người aa hiền lành, người con ngoan ngoãn, có lẽ cũng là người chồng đảm đang, nhưng vợ ông đã không cho ông cơ hội đó.
Vợ ông là người phụ nữ rất lãng mạn, là kiểu người sẽ dành cả ngày để nấu một bữa tối trong ngày kỷ niệm cưới, nhưng Thẩm Chính Phong không phải người chồng lãng mạn, ông đổ hết tâm huyết vào truy bắt tội phạm, để bắt một tên tội phạm, ông có thể thức cả đêm không ngủ, trong những nhiệm vụ khẩn cấp, gần như ở luôn trong đồn cảnh sát, còn không về nhà nổi.
Khi vợ ông sinh Xuân Hòa, ông đang ở nước ngoài thương thuyết, nên đã lỡ mất dịp Xuân Hòa chào đời, vợ ông không chịu nổi mối quan hệ vợ chồng như vậy nữa, khi ông trở về bà đòi ly hôn, người ta bảo lúc đó tháng còn chưa yên bụng, Thẩm Chính Phong hy vọng bà dưỡng sức rồi hãy suy xét, nhưng bà đã quyết tâm, không chờ thêm giây phút nào nữa.
Họ đăng ký ly hôn, một người chịu đựng im lặng, một người cuối cùng cũng nhẹ nhõm, rồi chia tay nhau.
Một người phụ nữ lãng mạn mà ngoan cố cũng có thể trở nên độc ác, bà để lại đứa con gái chưa được một tháng tuổi cho ông, rồi không đầy một tháng là đăng ký kết hôn với người đàn ông khác. Sau khi cưới không lâu bà lại có thai.
Lúc nhỏ Xuân Hòa gần như không hề gặp mẹ ruột, thỉnh thoảng ông ấy sẽ cho cô xem ảnh và nói đây là mẹ, ông không hề trách móc vợ, thậm chí vô cùng cảm thấy mình đã làm tổn thương vợ.
Cho nên sau này mới đón Tri Hạ về nhà!
Một người đàn ông như thế, Xuân Hòa cảm thấy trên đời không ai tốt bằng ông nữa.
Nhưng giờ cô đang gần như quên mất ông.
Ai có thể nhớ ai mãi?
Mười một năm trôi qua, ai vẫn còn nhớ cảnh sát trẻ tuổi ba mươi mấy, vì an nguy của người dân mà liều thân chặn cướp, để lại mẹ già và hai cô con gái mới lên sáu?
Ai còn nhớ ông? Ngay cả con gái ông cũng sắp quên mất rồi!
Xuân Hòa cứ đi, đi ngang qua quán bánh sáng của dì Triệu Ngọc Hàm, những cửa đóng kín dường như mang ý nghĩa tang thương.
Rồi ngang qua siêu thị Gia Gia Lạc, bà chủ vẫn đang chửi rủa tên điên phá hỏng máy tính bà, cả ngày la hét mà giận dữ vẫn không nguôi, Xuân Hòa nghĩ thế cũng tốt, khi việc chưa quá nghiêm trọng người ta mới vì những thứ nhỏ nhặt mà bận tâm.
Đi ngang qua phía sau hẻm số 18, Xuân Hòa dừng bước rất lâu ở cửa, trong tầm mắt dường như hiện lên một thiếu niên, mở cánh cửa sắt rỉ sét ra cho cô, nói: “Quần áo em ướt hết rồi, vào trong lau khô đi, đừng cảm lạnh nhé!”
Người thanh niên cao ráo, lưng thẳng tắp, nói năng làm việc lộ rõ vẻ phóng khoáng, đôi mày mắt lại chứa đựng sự nghiêm túc sâu sắc.
Xuân Hòa thích quan sát người khác, đặc biệt là quan sát hắn.
Bởi không hiểu rõ.
Xuân Hòa đứng ở cửa rất lâu, lâu đến mức nhà kế bên cũng mở cửa.
Mẹ nuôi Tri Hạ dắt theo con trai đi ra, mắng nhiếc om sòm: “Biết thích ăn kem rồi, sao cái tính ngoan cố này không đem ra học hành, không phải các môn đều điểm kém à.” Bà ta kéo cánh tay con trai, lôi đi về phía trước, nói xong vẫn thấy không hả giận, độc ác quát một tiếng: “Vô dụng!”
Xuân Hòa nhìn chằm chặp bà ta, đột nhiên nhận ra mình thậm chí không còn hơi sức tức giận, loại người như thế, sống qua ngày chẳng hiểu thấu đáo gì là tình thương, cũng không biết ghét là gì, cả ngày mắng chửi đủ điều, thích ai cũng mắng, không thích cũng mắng, sống đến cuối đời cũng không hiểu mình sống là vì điều gì.
Để bà ta chết, hoàn toàn vô nghĩa, còn việc bà ta sống, dường như cũng không có ý nghĩa gì.
Bà đi ngang qua trước mặt Xuân Hòa, đột nhiên quay đầu lại, hình như mới nhận ra Xuân Hòa, sắc mặt lập tức trở nên kỳ quặc.
Xuân Hòa nghiêng người sang bên, đối diện với bà, không gọi được tiếng dì, chỉ gọi tên: “Tưởng Lệ!”
Tưởng Lệ nhìn cô, siết chặt bàn tay đang nắm con trai, đứa bé la khóc thảm thiết: “Đồ khốn, đau chết rồi!”
Bà ta tỉnh trí lại, dùng tay kia tát vào mông con: “Chửi ai khốn hả? Đồ súc sinh.”
Xuân Hòa không biết, Tri Hạ phải chịu đựng tình cảnh này mỗi ngày là cảm giác thế nào, dù sao cô cũng thấy mệt mỏi, còn có chút gì đó ghê tởm nói không nên lời.
Tưởng Lệ vội vàng nói: “Không có gì thì dì đi trước đây.” Rồi kéo con trai rời đi.
Xuân Hòa mở miệng: “Tôi muốn hỏi dì vài điều, mong dì trả lời thành thật.”
Tưởng Lệ dừng bước chân, ngây ngốc một lúc rồi móc từ túi ra hai đồng xu, nhét vào tay con: “Tự đi mua đồ ăn đi, rồi sang nhà chú Lâm chơi một lát.”
Thấy tiền, cậu bé sung sướng chạy đi.
Tưởng Lệ nhìn Xuân Hòa: “Cứ hỏi đi!”
“Dì bán Tri Hạ đến Hoàng Đình lúc nào? Nói ngày tháng cụ thể.”
Mặt Tưởng Lệ nhợt nhạt đi, “Con nói gì vậy?!”
Xuân Hòa lạnh lùng cười nhạt: “Tôi có bịa đặt hay không dì tự rõ. Tôi hỏi dì việc này tất nhiên là biết dì làm chuyện tốt gì, dì cũng có thể không trả lời, nhưng tôi sẽ chờ cảnh sát tới hỏi thôi.”
Mặt Tưởng Lệ thay đổi sắc màu vài lần, cuối cùng đáp: “Ngày 23 tháng 4 dương lịch, dì cũng không còn cách nào khác, chồng con nợ nần chồng chất, nếu không nghĩ cách cả nhà sẽ tan nát, nhà mất tất cả rồi, còn một đứa con gái, rồi cũng sẽ rơi vào cảnh ngộ đó, dì cũng không thể làm gì. Đừng trách dì, dì đâu có giết nó, dì đã nói rõ mọi chuyện, chờ con bé kiếm được tiền, thi đậu đại học cả nhà sẽ dọn đi nơi khác, lúc đó ai cũng không biết chuyện nữa, con bé vẫn có thể lấy được người tốt, tự nó u mê muốn chết, không thể đổ tội cho dì.” Bà ta nhìn Xuân Hòa, lộ ra vẻ thế sự nhân tình của người đàn bà trung niên, “Con cũng đừng cảm thấy khó xử, đời này đã thế rồi!”
Xuân Hòa kiềm chế cơn giận, “Bà mơ đi!”
Cô không muốn nhìn thấy bà ta thêm một giây nào nữa, quay người bỏ đi.
Mãi đến khi đi ra khỏi hẻm, cảm giác nghẹn ngào trong ngực mới dịu đi.
Cô không còn suy nghĩ về Tưởng Lệ nữa, chỉ nghĩ đến đoạn video nhìn thấy hôm ở hầm tối Hoàng Đình.
Trong video Tri Hạ mặc áo dài tay, nên thời gian có lẽ là giao mùa xuân hạ, lúc đó Tri Hạ có lẽ đã bị xúc phạm rồi, nhưng từ tháng 4 cho đến khi mất, Tri Hạ vẫn không có biểu hiện bất thường, vẫn đi học đúng giờ, những lá thư viết cho cô cũng không có gì khác lạ.
Xuân Hòa hiểu Tri Hạ, bề ngoài trông cô nhút nhát, nhưng tính cách kiên cường, loại sẵn sàng vỡ nát hơn là làm gái điếm. Nếu không chịu đựng được sự sỉ nhục, sớm đã chọn cái chết rồi, đâu đợi tới tháng 7.
Nhưng Tri Hạ đã cam chịu.
Tại sao?
Xuân Hòa suy đi nghĩ lại, chỉ nghĩ ra một lời giải thích hợp lý –– còn một lý do nào đó giúp cô ấy chịu đựng được ở Hoàng Đình.
Và lý do đó, quan trọng hơn cả thanh danh của một cô gái.