Đỗ Thải Hà hỏi ra thì mới biết Kiếm Trì tam tổ có lời nhờ vả, tranh thủ được cho cô nàng một chức quản khố, phụ trách quản lý việc xuất nhập thuốc thang cho một toán binh sĩ chừng hai trăm người, thành thử không cần phải vào quân doanh, không cần lên tiền tuyến, có thể nói là một chức quan nhàn tản an toàn, mưa không đến mặt mà nắng chẳng đến đầu.Kỳ thực, chức vị hiện tại của Đỗ Thải Hà có thể nói là củ khoai nóng bỏng tay, được các vị đại quan quý nhân tranh nhau vỡ đầu mẻ trán cho con cháu nhà mình.
Quan lại địa phương cũng vì thế mà đau đầu nhức óc, không biết phải làm thế nào đẩy các chức béo bở này ra ngoài sao cho không đắc tội ai.
Nếu không phải trong đại chiến mười mấy năm trước, thành Tuyết Hoa từng là nơi Lâm Phương Dung tọa trấn, quan lại Đại Hàn bây giờ không ít thì nhiều đều có giao tình với ba vị kiếm tổ thì có lẽ chức vị này cũng chưa chắc đã đến lượt Đỗ Thải Hà ngồi.Cũng vì không cần phải vào quân doanh sống, thế nên Song Vô Song và Đỗ Thải Hà mới cần ra ngoài tìm một gian phòng trọ cho cô nàng thuê lâu dài.
Song Vô Song có vẻ rất thông thạo đường lối trong thành, thế nên chẳng mấy chốc, cậu chàng đã kiếm được một chỗ tiểu viện trang nhã, đầy đủ cả bàn ghế giường tủ, cơm ngày ba bữa đã có chủ nhà chuẩn bị.
Đỗ Thải Hà vốn muốn tự trả tiền thuê, thế nhưng cuối cùng lại không có đủ lộ phí, đành phải đỏ mặt để Song Vô Song trả tiền giúp.Tam đệ tử của Bích Mặc tiên sinh thấy phía Kiếm Trì giúp đỡ tận tình quá, bây giờ lại còn phải nhờ họ trả tiền nhà giúp thì cũng không phải phép.
Thế là chờ Song Vô Song bàn bạc đâu vào đấy với chủ nhà, cô nàng mới tóm “hai người” lại, hỏi:“Vô Song, không biết gần đây có trà lâu tửu quán nào nhiều người lui tới hay không?”“Nổi tiếng nhất thành Tuyết Hoa thì có hai nơi: tửu quán có Tịnh Tuyết các ở thành nam, trà lầu có Lam Ba lầu ở thành bắc.
Tửu quán nhiều đại hiệp tiêu sư, trà lầu lắm tao nhân mặc khách.”Song Vô Song đáp.Đỗ Thải Hà nghĩ một thoáng, đoạn cười:“Vậy thì đi thành bắc một chuyến.”Song Vô Song ho khan một tiếng, nói:“Đỗ tiểu thư có điều không biết.
Lam Ba lầu này là sản nghiệp của Lam Ba thư quán, lần trước tiên sinh cũng coi như là đắc tội với người ta.
Bây giờ tìm đến tận cửa, ngộ nhỡ bị hiểu lầm là đi gây sự há chẳng phải lại để cho đám người Long Hổ sơn mượn cớ hay sao?”Đỗ Thải Hà cười, đáp:“Đi uống trà thôi mà.
Lại nói gia sư cũng đã giúp Nho đạo khôi phục như cũ, chắc người đọc sách thánh hiền sẽ không nhỏ mọn đến thế chứ?”“Nói về nhỏ mọn Nho môn nhận thứ hai thử hỏi ai dám nhận đệ nhất?”Cả hai Song Vô Song cùng trợn mắt, đồng thanh nói.
Bình thường Song Vô Song một hồn hai xác, có nói chuyện hay hắt hơi ho hắng thì cũng là hai thân thể làm lần lượt.
Trừ phi là chuyện gì cực kỳ chấn động, hoặc trong lòng có cảm xúc mãnh liệt, cả hai thân thể của Song Vô Song mới lên tiếng đồng thanh như thế.
Đỗ Thải Hà nghe mà phì cười, thầm nghĩ không hiểu Nho môn đã làm gì mà khiến quý tử nhà Ngự Kiếm trưởng lão của Kiếm Trì ác cảm đến như vậy.Cuối cùng, Đỗ Thải Hà nài nỉ dữ quá, Song Vô Song không còn cách nào thoái thác, đành dẫn cô nàng đến Lam Ba lầu.
Vì cô nàng sắp nhận chức quan thủ kho, bình thường sẽ phải sang thành bắc làm việc, thành thử chỗ mà hai người Song Vô Song chọn để thuê cách lối vào Thiên Thê cũng không xa.
Hai người đi mấy bước chân là đến một tòa tháp, trước cửa có lính canh đứng gác.Song Vô Song chìa lệnh bài thân phận cho hai người xem, vừa trả tiền lệ phí vừa giới thiệu:“Đây là Đăng Thiên Tháp, là chỗ duy nhất có thể tiếp cận cửa vào của Thiên Thê.
Cách đây bốn dặm còn có một chỗ Thiên Thê nữa cho dân chúng sử dụng, không cần lệnh bài thân phận, nhưng sẽ rất đông.
Sau này chị nhậm chức rồi, cứ lấy quan ấn ra cho họ xem là được.”Hai người lính nhận lệnh bài của Song Vô Song, nhét vào miệng của một bức tượng chó đá kê trước cửa Đăng Thiên Tháp.
Lệnh bài vừa đặt vào lưỡi của chó đá thì lập tức rụt vào trong, cái miệng hé hờ của con chó đá thoắt cái ngậm chặt lại.
Mắt tượng đá nhấp nháy tỏa sáng một lúc chừng mười lăm hai mươi cái hô hấp gì đó.
Kế, miệng chó đá há to, âm thanh đều đều vô cảm vang lên:“Song Vô Song: thiên kiêu của Tẩy Kiếm Trì, người Hoan Kiếm phái, con trai của Ngự Kiếm trưởng lão Hàn Ngọc Sương, thân phận Địa đẳng.”Đỗ Thải Hà nhìn con chó đá, hai mắt tỏa sáng.
Cô nàng có thể đoán được trong bụng tượng có khắc trận pháp đặc biệt chuyên để xác minh thông tin ghi trên lệnh bài thân phận, thế nhưng cụ thể thế nào thì còn phải lấy tượng đá về đục ra mới biết.“Song thiếu gia, mời đi bên này.”Hai tên lính canh lấy lệnh bài trong miệng tượng đá ra, trả cho Song Vô Song, đoạn cùng bước lui một bước nhường ra một con đường dẫn đến cửa Đăng Thiên Tháp.Đỗ Thải Hà theo chân cậu chàng, đi lên một cái cầu thang bằng đá.
Ba người cứ thế lên mãi, lên mãi, đi mỏi chân mới đến đỉnh.
Chỉ thấy phía bắc ngọn tháp mở ra một cái ban công rộng chừng hai trượng vuông, nối với một cây cầu treo – Thiên Thê.
Trên nóc ngọn tháp rủ xuống hai sợi xích đen thui, to bằng cả cái bắp đùi của Đỗ Thải Hà, giữ chặt lấy thân cầu.
Ván cầu lát bằng những phiến đá đen, không trơn nhẵn như gỗ xẻ mà sần sùi lởm chởm, loáng thoáng ngửi được mùi của biển.
Trên các đoạn mắt xích và ván cầu đều có khắc những trận văn phức tạp, chằng chịt đan vào nhau chẳng khác nào mê cung ma trận.
Đỗ Thải Hà nhìn còn thấy hoa cả mắt, đừng nói chi là người thường không thông hiểu trận pháp.Song Vô Song vừa bước lên cầu, vừa nhắc:“Lát nữa chị lên cầu thì đừng sử dụng chân khí, bằng không trận pháp trên cầu phát động thì chỉ có đường chết lộn cổ xuống sông.”“Ba người” đi đến giữa Thiên Thê, Đỗ Thải Hà mới dừng chân, vịn lấy thành cầu nhìn xuống dòng sông bên dưới.
Chỉ thấy lượn lờ giữa hai bức tường thành tựa như đôi bờ vách đá là một dòng nước đen sì, bó hẹp, hờ hững trôi về phía đông.
Dưới chân tường thành, lấp ló giữa dòng nước lên xuống theo thủy triều là cơ man không biết bao nhiêu là xương cốt trắng hêu hếu, chất thành một cái gò nhỏ bám lấy tường thành.
Vì đứng quá cao, Đỗ Thải Hà cũng không nhìn rõ những xương cốt ấy là của người hay của Hải Thú nữa.Cô nàng hít sâu một hơi, cảm thán:“Chắc hẳn chiến sự mấy năm nay ác liệt lắm.”“Cũng không đến nỗi.
Dăm ba năm bọn chúng lại đến công thành một lần.
Trấn Thủy quan phía tây cũng bị tập kích.
Đương nhiên đều là những trận đánh quy mô nhỏ, tự Đại Hàn có thể thủ vững.
Không giống trận chiến sắp tới đây.”Song Vô Song đáp gọn lỏn, tiếp tục rảo bước về phía thành bắc.Đỗ Thải Hà xuất thân là thôn nữ đại Sở, sau lại ru rú trên núi.
Thành thử tuy cũng có một thời gian lang bạt khắp nơi, nhưng không nắm rõ tình hình chiến sự ở miền duyên hải cho lắm.
Nghe Song Vô Song nói mấy năm nay Hải Thú vẫn thường đánh Tuyết Hoa thành, cô nàng bèn lên tiếng hỏi:“Đúng, Vô Song này, thế nào là quy mô lớn, thế nào là quy mô nhỏ vậy?”“Hải Thú ở biển Phong Bạo cũng như yêu thú trong Lục Trúc hải thôi, có tộc mạnh, có tộc yếu.
Đối với Hải Thú, tứ đại vương tộc nằm quyền lực tối cao, thống ngự các tộc, chia Phong Bạo hải làm bốn phần: bắc bộ, bắc trung bộ, trung nam bộ, nam bộ.
Dưới vương tộc là các hầu tộc, cai quản một vùng biển rộng bằng châu, quận trên đất liền.
Dưới nữa là các bá tộc.
Các tộc kém hơn bá tộc thì gọi là bất nhập lưu, không có địa bàn riêng mà sống rải rác khắp cả Phong Bạo hải.”Cậu chàng rút kiếm, chỏ về phương đông, rồi nói tiếp:“Vùng biển phía đông Tuyết Hoa thành là địa bàn của tộc Hải Xà, coi như là một bá tộc.
Bình thường cho dù có đánh trận thì cũng chỉ có đám rắn biển này lên bờ mà thôi.
Cứ cách vài chục năm, hầu tộc thống ngự Hải Xà tộc – Tiêu Giao tộc – sẽ dẫn các bá tộc dưới trướng đánh phá một vùng duyên hải Đại Hàn.
Trận chiến hai mươi năm trước lúc gia mẫu thụ thương cũng là do Tiêu Giao tộc ra tay.“Còn lần này, các vương tộc đồng thời rục rịch, có thể nói là quy mô chẳng kém gì trận Phạt Hải chi chiến ba ngàn năm trước.”Đỗ Thải Hà gật đầu, lại nói:“Đúng rồi.
Song Vô Song này, câu hỏi này của tôi e là có hơi thất lễ, mong cậu chớ trách.
Thế nhưng tôi cứ thắc mắc mãi, ba ngàn năm trước...!vì sao Phạt Hải Kiếm Thánh lại vào biển Phong Bạo? Hải Thú rốt cuộc sống dưới biển hay lấy đảo làm vương quốc?”“Chuyện này...”Song Vô Song thất thần, hoảng hốt trong thoáng chốc.
Người đời vẫn nói Hàn Kinh Vũ năm xưa một người một kiếm đánh vào biển Phong Bạo, tàn sát vô số Hải Thú, cuối cùng vì đụng phải Đảo Quỷ mới không thể không rút lui.Thế nhưng...Bản thân câu chuyện ấy cũng có mâu thuẫn.Hải Thú nếu như lập quốc dưới biển, ở hẳn dưới đáy nước như long tộc, vậy thì khi Kiếm Thánh nhập hải đáng lẽ phải lặn sâu xuống đáy đại dương mới phải.
Lúc đó thì sao nhìn thấy Vọng Hương sơn, sao mà đụng đầu Đảo Quỷ?Nếu Hải Thú lấy đảo lớn đảo nhỏ làm chỗ dừng chân, vậy thì vì cớ gì suốt ba ngàn năm nay, các nước vẫn cứ để mặc Hải Thú xâm lấn hoành hành mà không phái binh tiêu diệt triệt để, nhất lao vĩnh dật?Đáp án này, có lẽ chỉ có long tộc và bản thân Kiếm Thánh biết.Thế nhưng, Hàn Kinh Vũ đã ôm câu trả lời xuống mộ.Long tộc thì càng không cần phải nói, kẻ nào kẻ nấy tính khí ngạo mạn, chưa từng coi sáu nước là ngang hàng với mình.
Cho dù kể từ sau khi Long Bá Thiên nhậm chức tộc trưởng, quan hệ giữa con người và loài rồng đã có hòa hoãn, song cũng chỉ dừng ở mức xã giao, nước sông không phạm nước giếng mà thôi.Chẳng có lí do gì để long tộc khi không lại nói bí mật của biển Phong Bạo cho con người cả..