Giang Nguyệt gật đầu: “Được, lát nữa ta sẽ đi lấy.
Minh Châu, đừng nghịch dương kim hoa nữa, mang nó lại đây.”
Minh Châu xách cây dương kim hoa đến chỗ Giang Nguyệt.
Cây dương kim hoa mềm oặt, trông như một cây cỏ khô.
Giang Nguyệt truyền vào nó một chút dị năng.
Ngay lập tức, cây dương kim hoa từ trạng thái héo úa trở nên căng tràn sinh lực.
Dù màu sắc lá vẫn không thay đổi, nhưng nó trông khỏe khoắn hơn nhiều.
“Cây này có ích, đừng để nó chết.” Giang Nguyệt nhắc nhở Minh Châu.
Cô bé ngoan ngoãn gật đầu, “Bà yên tâm, con biết chừng mực mà.”
Dương kim hoa muốn khóc rồi, đây gọi là có chừng mực sao? Đã gần bị đốt cháy rồi!
Minh Tư Dũng nghe Giang Nguyệt nhắc đến tên dương kim hoa, liền hỏi: “Mẹ, đây là cây mạn đà la sao?”
Mạn đà la không phải cây thuốc quý, nhưng vì truyền thuyết về nó, danh tiếng của nó khá lớn.
Nhưng cây này trông không giống như trong sách miêu tả.
Không chỉ màu sắc lá khác, mà cả thân cây cũng không giống.
Nghĩ đến việc đây là một cây có thể tự di chuyển, Minh Tư Dũng cảm thấy không nên đánh giá nó như những cây cỏ thông thường khác.
Giang Nguyệt gật đầu.
Minh Châu tò mò hỏi: “Cha, mạn đà la là gì vậy?”
Minh Tư Dũng giải thích tường tận cho cô bé về công dụng và đặc tính của mạn đà la.
Giang Nguyệt nhìn con trai mình, không ngờ anh lại hiểu biết nhiều đến vậy.
Cô nhận ra, cô biết dương kim hoa chỉ vì gia đình cô vốn có truyền thống về dược liệu.
Nhưng đừng hiểu lầm, cô không phải bác sĩ đông y hay tây y, mà gia đình cô mấy đời đều làm nghề buôn thuốc, chuyên thu mua các loại thảo dược.
Thậm chí để có được các loại thuốc tốt, gia đình cô có nhiều cơ sở trồng trọt khắp nơi.
Kiếp trước, cô phải di chuyển liên tục, và thường xuyên cắm rễ ở những cánh đồng dược liệu.
Không dám nhận mình là chuyên gia, nhưng cô có thể coi là một nông dân trồng thuốc thực thụ.
Sau này, khi cô và vài người bạn thành lập một đội nhỏ, mọi người chọn cô làm đội trưởng không chỉ vì cô có dị năng không gian, mà còn vì cô có kiến thức về thảo dược.
Trong thời kỳ tận thế, bác sĩ là nghề rất được săn đón.
Tiếc là các bác sĩ chuyên nghiệp đã bị những căn cứ lớn chiêu mộ, nên đội nhỏ của cô chỉ có thể dựa vào người nửa vời như cô, thậm chí còn không đủ trình độ làm “bác sĩ chân đất”.
Dù vậy, cô vẫn là người được đội bảo vệ ưu tiên.
Nghĩ đến những ngày cùng các chị em vượt qua gian khó, Giang Nguyệt thở dài.
Giờ không còn ở thời
kỳ đó nữa, cô không biết liệu những người bạn ấy có còn sống hay không.
Cô còn chưa kịp xua tan cảm xúc thì bên ngoài có tiếng gọi.
“Bác ơi, cha cháu bảo cháu gọi bác đi chia lương thực.”
Giang Nguyệt cắm cây dương kim hoa trở lại đất.
Minh Tư Dũng ra mở cổng, bên ngoài là Minh Xương Mậu.
Sau khi có một bữa ăn no, tinh thần của Minh Xương Mậu đã khá hơn nhiều, dù vẫn gầy gò, ít nhất anh ta không còn đi đứng xiêu vẹo.
Huống chi, trong làng Đại Sơn, ai cũng gầy cả.
“Mẹ.” Minh Tư Dũng quay lại hỏi ý kiến Giang Nguyệt.
Giang Nguyệt nói: “Đi thôi, giờ chúng ta đến đó.”
Cả gia đình cùng nhau đi đến làng.
Ngoài gia đình họ còn có hơn hai mươi hộ gia đình khác.
Trên đường đi, Giang Nguyệt gặp mẹ của Cẩu Oa, bà được hai đứa con dìu đi, trông như đã gần kiệt quệ.
Điều duy nhất cho thấy bà còn sống là đôi mắt thỉnh thoảng chớp động.
“Thở dài.” Tiền Ngọc Lan thở dài.
Mẹ của Cẩu Oa trạc tuổi cô, hai người từng thân thiết khi mới về làm dâu làng Đại Sơn, nhưng sau khi chồng cô đỗ tú tài và gia đình chuyển lên trấn ở, họ ít còn liên lạc.
Giờ nhìn người bạn cũ thành ra như vậy, Tiền Ngọc Lan không khỏi xót xa.
Làm sao có người đàn ông nào có thể nhẫn tâm đến mức chỉ vì muốn sống sót mà bỏ mặc vợ con chết đói, không đoái hoài đến họ?