Chương 43:
Editor: Byredo
Bản chuyển ngữ bạn đang đọc thuộc về Luvevaland. Nếu bạn đọc ở trang khác chứng tỏ đó là trang không có sự đồng ý của LuvEva land fanpage. Mong bạn hãy đọc ở trang chính chủ để đọc được bản đầy đủ nhất cũng như ủng hộ nhóm dịch có động lực hoàn nhiều bộ hơn nhé.
Ôn Hỏa ra ngoài uống nước, Túc Hòa đang ngồi trên tấm thảm ở chỗ sofa, dùng ghế sofa để làm bàn viết chữ. Anh ấy nghe được động tĩnh, quay đầu nhìn Ôn Hỏa một cái, nói: “Nhà bếp phía tây có nước ép lê tươi.”
Ôn Hỏa chỉ muốn uống nước.
Túc Hòa không ngừng tay khi thấy Ôn Hỏa đi tới, dòng chữ tiếng Anh tuyệt đẹp dần hiện lên trên quyển sổ.
Ôn Hỏa ngồi trên sofa, nhìn vào khu vực TV trống, TV ở sau bức tường, nếu ấn công tắc thì nó mới quay lại. Bây giờ, nơi đó là bức tranh mà Nguyễn Lí Hồng mua với giá cao, là “Đêm ngày 3 tháng 5 năm 1808 tiêu diệt quân phản loạn” của Qua Nhã.
Bà vì bức tranh này mà chạy đi chạy lại suốt hai năm, gần như phải sống trong Bảo tàng Nghệ thuật Prado, cuối cùng cũng được như ý nguyện.
Trước kia, Ôn Hỏa không rõ vì sao Nguyễn Lí Hồng lại thích một bức hoạ đi ngược với chủ nghĩa yêu nước Napoleon như vậy, dù là bố cục hay sắc thái đều không phải gu của bà. Đến khi cô vô tình nhìn thấy ghi chú của Nguyễn Lí Hồng, bên trong có một tập tên là ‘Hỏa Hỏa của chúng ta’.
Nơi đó ghi lại tất cả những món đồ, thức ăn, nước uống, đồ dùng, vui chơi mà Ôn Hoả từng nhắc, bà ghi nhớ hết tất cả mọi thứ.
Nhưng bà đã hiểu sai một chút, lúc ấy, Ôn Hỏa nhắc tới bức tranh này không xuất phát từ góc nhìn mỹ thuật, có hứng thú với nó là vì cách xây dựng bức tranh, bầu không khí nặng nề do bức tranh tạo ra rất hợp với tâm trạng cô.
Bản chuyển ngữ bạn đang đọc thuộc về Luvevaland. Nếu bạn đọc ở trang khác chứng tỏ đó là trang không có sự đồng ý của LuvEva land fanpage. Mong bạn hãy đọc ở trang chính chủ để đọc được bản đầy đủ nhất cũng như ủng hộ nhóm dịch có động lực hoàn nhiều bộ hơn nhé.
Cô chỉ là đi tìm một kết luận, hoặc là một đại diện, đại diện cho sự thất bại đến chật vật của cô khi cố gắng chống lại vận mệnh, cùng với dũng khí chẳng sợ thất bại, vẫn cứ ngoan cố không cúi đầu.
Vì sao lúc ấy cô lại có tâm trạng như vậy ư? Là vì lúc ấy, chứng mất ngủ của cô bắt đầu xuất hiện.
Túc Hòa viết xong, xé tờ giấy đó ra, dùng bật lửa trên bàn để đốt, ngọn lửa như nhảy múa trong tay anh ấy, tờ giấy kia cuối cùng cũng hóa thành tro tàn trong gạt tàn thuốc.
Ôn Hỏa hỏi anh ấy: “Viết cho Túc Địch sao?”
Túc Hòa gật đầu: “Viết cho người khác đều không cần phải đốt.” Chỉ có viết cho người đã qua đời mới phải đốt thôi.
“Anh nhớ anh ấy sao?”
Nụ cười của Túc Hòa có chút chua xót: “Nhớ chứ, nó là em trai anh mà.”
Ôn Hỏa cũng nhớ: “Anh ấy là người giúp em có dũng khí đối mặt với hoàn cảnh xa lạ, là người mà em nể phục từ nhỏ đến lớn.”
Nói đến đây, Túc Hòa nói: “Khi đó, anh còn không vui, anh đẹp hơn nó nhiều như vậy, sao em lại cứ thích bám mông nó như thế. Kêu “anh trai, anh trai” đến là chăm chỉ.”
“Anh ấy không cần nhan sắc đã có thể chinh phục được người khác, đây là sự hấp dẫn của tâm hồn. Nhưng mà thế cũng vô dụng, nó vẫn không thể cứu được anh ấy.” Ôn Hỏa nhàn nhạt nói.
Túc Hòa đột nhiên nghĩ đến một từ: “Có phải gọi là “trời cao đố kỵ anh tài” không?”
Ôn Hỏa gật đầu: “Vâng.”
Túc Hòa và Túc Địch là hai anh em, cùng mẹ khác cha, Túc Hòa trời sinh đã có cảm giác nghệ thuật, ngoại hình cũng thuộc loại vừa nhìn đã khiến người ta trầm trồ kinh ngạc. Nói ngắn gọn thì, anh ấy có thể dựa vào mặt để kiếm cơm. Túc Địch thì không phải, vóc dáng Túc Địch không quá cao, trông cũng bình thường, nhưng anh ấy thông minh, anh ấy có trí tuệ hơn người, tài năng mỗi ngày đều tuôn trào không ngừng, huống chi, từ nhỏ anh ấy đã nổi tiếng, cũng không thua kém Túc Hòa.
Sau khi Ôn Hỏa đến Canada thì học chương trình ESL (1), cũng chính là học tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai. Mặc dù ham học, nhưng cô không có năng khiếu ngôn ngữ, nên trình độ vẫn luôn dưới mức trung bình.
(1) ESL (English as a Second Language Programs): được hiểu là chương trình đào tạo tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, thích hợp với các học viên nói tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ. Tạo điều kiện cho du học sinh hay người đi làm sử dụng tiếng Anh; tự tin giao tiếp trong quá trình học tập, làm việc tại nước ngoài.
Chính Túc Địch đã dạy phụ đạo cho cô, dạy cô phát âm tiếng Anh Mỹ chuẩn, giúp cô lấy tín chỉ và đậu thành công vào một trường trung học công lập ở Toronto.
Kể từ đó, Túc Địch đã được thần thánh hóa trong lòng cô. Dường như anh ấy biết tất cả mọi thứ. Cô chợt nghĩ đến những vở kịch về kỹ nữ và tướng quân thời Trung cổ. Trong vở kịch, có vẻ như, phụ nữ càng xinh đẹp, tư tưởng càng lệch lạc, thì càng thích đàn ông văn vở, trầm tính.
Cô không biết liệu có phải khi viết kịch bản, các biên kịch có suy nghĩ tục tĩu hay không, nhưng cô cũng tin rằng, một người đặc biệt tài năng sẽ thu hút được sự yêu thích của mọi người.
Sau đó, Túc Hòa tham gia chương trình tài năng, rồi đến trường nghệ thuật, còn Túc Địch thì lại thắng được đủ loại giải thưởng, từ văn học, đến toán học, hóa học, y học…
Ôn Hỏa thấy rõ được bốn chữ “bể học vô bờ” từ trên người anh ấy, không khỏi nhanh chóng đuổi kịp bước chân anh ấy, thu nạp thật nhiều tri thức.
Cuộc sống như vậy trôi qua mấy năm, mỗi ngày Ôn Hỏa đều học tập, cảm thấy sinh hoạt rất phong phú, nhưng cô không có phương hướng rõ ràng, cũng không có chuyện gì đặc biệt thích làm cả. Bởi vì tấm gương Túc Địch của cô, cũng không có. Cái gì Túc Địch cũng giỏi, nhưng dường như không thật sự muốn làm chuyện gì cả.
Cho đến buổi chiều ngày nọ, anh ấy không còn sự bình tĩnh, chuyên chú như ngày thường nữa, mà hoảng loạn, gấp gáp trở về, nhốt mình trong phòng, không chịu ăn cơm.
Đợi đến khi anh ấy ra ngoài, thì vật lý đã thành mục tiêu sống của anh ấy. Anh ấy vứt bỏ những thành tựu nổi tiếng thuở thiếu niên, nhào vào một lĩnh vực mà mình chưa từng học qua, bắt đầu gần như điên cuồng mà khai quật, nghiên cứu.
Sau này, anh ấy dạy cho Ôn Hỏa, cũng chỉ có vật lý. Anh ấy dẫn Ôn Hỏa đến một thế giới vật lý phức tạp, khổng lồ, và tràn ngập kiến thức mà cô chưa từng được biết đến.
Dưới sự dẫn dắt của anh ấy, Ôn Hỏa cũng đi trên con đường này.
Lúc đầu, cô còn tưởng mình không thích vật lý, chỉ là đi theo Túc Địch. Dần dần, cô phát hiện, trong vật lý, cô đã tìm được sự thỏa mãn tinh thần mà Túc Địch không thể hoàn toàn cho mình được.
Cô yêu vật lý, gần như là bởi vì vật lý đáng giá, mà Túc Địch, chỉ là một người đưa cô đến với vật lý mà thôi.
Hai người có cùng phương hướng cuộc đời, sau này, quan hệ lại càng hòa hợp hơn. Bọn họ một người nghiên cứu thiên thể, một người nghiên cứu hạt năng lượng, nhưng vẫn có thể làm cùng nhau, cho nhau linh cảm và trợ giúp…
Sinh hoạt tràn đầy ý nghĩ tích cực làm bọn họ cảm thấy hạnh phúc, nếu không có sự kiện kia xảy ra, thì có lẽ, bọn họ vẫn sẽ luôn thưởng thức lẫn nhau, hạnh phúc sống tiếp. Nhưng, cố tình là, nó đã xảy ra.
Túc Địch thích một người, nhưng người kia quá xấu xa, sau khi biết tình cảm của anh ấy, thì lập tức quen bạn gái.
Tuy Túc Địch và Túc Hòa khác nhau như trời với đất, nhưng thái độ đối với tình yêu của bọn họ đều giống nhau: duy nhất và vĩnh hằng. Cho nên, đứa con cưng của trời như Túc Địch, bởi vì không chiếm được tình yêu duy nhất của đời mình, đã lựa chọn cái chết.
Khi đó, Ôn Hỏa còn không rõ, không được yêu nên chết không phải là chuyện rất vô trách nhiệm hay sao? Chẳng lẽ cuộc đời con người chỉ có hai việc là yêu và chết sao?
Sau khi cô mất đi ngọn hải đăng, điểm tựa của cuộc đời mình, càng ngày càng khó ngủ, thì cô đột nhiên hiểu rõ. Tựa như có người thích ăn kẹo hồ lô, có người chán ghét vậy. Sẽ trở thành dạng người gì, sống cuộc sống như thế nào, đều chỉ dựa vào cách lựa chọn thôi.
Túc Địch sinh ra đã hơn người, đây là cánh cửa mà trời cao đã mở sẵn cho anh ấy. Mà cánh cửa bị đóng lại, chính là cánh cửa cuộc đời.
Dường như, đây là quy luật vận hành của thế giới, là quy luật mà trời cao đã thiết lập để cân bằng thế giới.
Thật ra, chuyện cũng không phải hoàn toàn sai lầm, ông trời cũng không có làm gì cả, chỉ là cuộc đời không thuận buồm xuôi gió, phải trải qua đủ loại thăng trầm, đắng cay, mặn chát mà thôi.
Túc Địch chết, làm Ôn Hỏa mắc phải chứng mất ngủ.
Khi đó, Ôn Hỏa đã nhắc tới bức tranh của Qua Nhã. Trong thời gian đó, trạng thái của cô phải nói là “kém”, suốt ngày phải tô son trát phấn. Ngày nào cô cũng giống như zombie trong phim, đứng trong phạm vi 10m đã ngửi thấy mùi hôi, cảm thấy lạnh lẽo.
Cảm giác không ngủ được quá thống khổ, đặc biệt là khi cô vừa rơi vào tình trạng này, thân thể không thích ứng được nên cô sinh ra phản ứng rất lớn. Dù là tinh thần hay bề ngoài, thì cô đều như thay đổi thành một người khác.
Cô trốn về nước, nhưng vẫn không có chuyển biến gì tốt đẹp, ngược lại lại càng thêm nghiêm trọng.
Nguyễn Lí Hồng không biết Ôn Hỏa và Túc Địch là bạn bè, lại càng là tri kỷ, cũng không biết anh ấy có sức ảnh hưởng lớn đến vậy trong cuộc sống của cô. Cho nên, khi nghe được tin tức cô bị mất ngủ, thì tưởng là do di truyền.
Bởi vì bà ngoại Ôn Hỏa cũng bị chứng mất ngủ, lúc tuổi già cực kỳ rõ ràng, cuối cùng đã qua đời vì bệnh viêm cơ tim.
Khi đó, Nguyễn Lí Hồng bước nhầm vào con đường Pháp Luân Công, chính là vì sợ mình cũng bị di truyền chứng mất ngủ này. Kết quả là bà không dính chưởng, nhưng con gái bà lại mắc phải. Bà nghĩ rất nhiều cách giúp cô, hoặc là không có hiệu quả, hoặc là cô từ chối phối hợp, nên mấy năm liền đều rơi vào bế tắc.
Túc Hòa chỉ là suy đoán: “Chứng mất ngủ của em, có phải bởi vì cái chết của Túc Địch không?”
Ôn Hỏa cười nhạt: “Rất rõ ràng sao?”
Túc Hòa lắc đầu: “Không rõ ràng, chỉ là anh biết những chuyện giữa ba người chúng ta, cho nên anh mới có thể suy đoán như vậy.”
Ôn Hỏa nói: “Thật ra cũng không hoàn toàn là vậy. Em cảm thấy chúng ta đều là người phàm, nhưng người phàm cũng có tín ngưỡng của chính mình. Giống như bị uy hiếp, chúng ta luôn muốn những chuyện khác phải nhường đường cho nó. Có một ngày, thứ này bị phá hủy, thì tương đương với việc mất đi nguồn sống.”
Túc Hòa hiểu rõ: “Túc Địch là tín ngưỡng của em.”
“Chính xác thì thời gian đi theo bước chân Túc Địch là tín ngưỡng của em. Anh ấy nói cho em biết em nên làm như thế nào, thì em mới có phương hướng.” Trước kia, Ôn Hỏa vẫn luôn không muốn nhắc tới chuyện này, cũng không phải cô không đoán được nguyên nhân bệnh của mình, mà là cô giả vờ không biết. Giả vờ, cũng là chuyện mà cô am hiểu.
Túc Hòa biết ngay là thế. “Thế có nghĩa là, trừ phi em ấy sống lại, nếu không thì bệnh của em sẽ không khỏi sao?”
Thật ra, Ôn Hỏa đã tìm được biện pháp khác để trị bệnh mất ngủ của mình, chỉ là, đã xảy ra nhiều chuyện như vậy, cô không muốn trị nữa.
Túc Hòa thấy cô không đáp, cũng không hỏi nữa: “Vốn dĩ, anh rất hận cái người hại chết thằng bé, nhưng khi anh không suy xét hậu quả, cũng không tính toán tương lai mà yêu chị Hồng, thì anh phát hiện, hình như người kia cũng không sai, chỉ là cậu ta không thích Túc Địch mà thôi, là do Túc Địch quá cực đoan.”
Ôn Hỏa uống xong ly nước, đêm nay đã nghĩ rất nhiều chuyện trước kia, cô muốn cho đầu óc nghỉ một lát, chuẩn bị trở về phòng.
Túc Hòa gọi cô lại: “Em muốn biết người gián tiếp hại chết Túc Địch là ai không?”
Ôn Hỏa không muốn biết. “Đã qua lâu rồi, nếu biết sẽ nghĩ quá nhiều. Em không còn sức để nghĩ nữa.”
Túc Hòa không nói gì, nhìn Ôn Hỏa trở về phòng.
Cũng tốt, anh ấy cũng không biết nên nói với Ôn Hỏa thế nào về chuyện, người làm Túc Địch lấy cái chết để chứng minh tình yêu mãnh liệt của mình, chính là người đang dây dưa không rõ với cô, Thẩm Thành.
Túc Địch thích vật lý, là bởi vì Thẩm Thành thích vật lý. Cho nên, người mở ra cánh cửa vật lý cho Ôn Hỏa, căn bản chính là Thẩm Thành. Cũng vì vậy, nên chỉ khi ở bên người Thẩm Thành, Ôn Hỏa mới có thể ngủ, bởi vì anh mới chính là ngọn nguồn.
Thẩm Thành mới là phương hướng cuộc đời của Ôn Hỏa.
Khi thế giới của Ôn Hỏa chỉ có màu đen, thì Túc Địch đã duỗi tay về phía cô, mà người đã thắp đèn cho cô, chính là Thẩm Thành.